Kỹ thuật làm bánh tro (hay bánh gio) cổ truyền của người Việt Nam có thể tóm tắt: lấy gio rơm nếp cho vào nước ngâm khoảng 1 giờ, gạn lấy nước trong. Bỏ một ít vôi tôi đặc vào hoà lẫn với nước gio, để lắng gạn lại cho thật trong. Đổ gạo nếp (đã vo đãi sạch) vào ngâm trong nước gio này khoảng 4-5 giờ, bấm hạt gạo thấy bở, đổ ra rá để ráo nước, dùng lá dong gói, luộc thành bánh tro, ăn với mật. Nếu không có rơm nếp thì dùng cây vừng, nếu không có thì dùng cây dền tía, hoặc quả xoan phơi khô đốt lấy gio cũng được.
Như vậy, bánh tro chủ yếu là dùng gio rơm nếp nên không có vấn đề độc hại ở đây. Từ trước tới nay, các tài liệu vệ sinh ăn uống cũng không có tài liệu nào nói bánh tro độc. Dù không có gio rơm nếp phải dùng gio quả xoan thì có độc, nhưng độc tính không mạnh.
Theo Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam (cố GS Đỗ Tất Lợi), thì từ lâu đời nhân dân ta (và một số nước) đã dùng thuốc bột hoặc thuốc sắc từ vỏ xoan chữa giun cho người lớn và trẻ em (người lớn có thể uống thuốc sắc tương đương với 37,5-40g vỏ khô/ngày; một số ít trường hợp ngộ độc là do dùng liều quá cao). Quả xoan thì càng ít độc hơn vỏ và rễ xoan. Hơn nữa, chất độc ở thực vật thường thuộc nhóm alcaloid, khi đốt thành than nó bị phá huỷ, gio chỉ là phần còn lại của vật đã cháy hết.
Sở dĩ ngâm tay vào nước gio làm bánh bị “ăn mòn thịt tay” là bởi độ kiềm cao ăn mòn da tay. Tuy nhiên, về dinh dưỡng mà nói thì cách chế biến bánh tro (phải ngâm ở độ kiềm rất cao) làm mất gần hết vitamin B1 vốn có của gạo. Người ta đã nghiên cứu thấy trong bánh tro (pH 10-12) tỷ lệ vitamin B1 chỉ là 1- 5% so với trong gạo nguyên liệu. Chúng ta có thể yên tâm ăn bánh tro mà không sợ bị ngộ độc.
BS Tiến Dũng