Hiện tại gây tê là một phương pháp vô cảm thường được sử dụng trong y khoa. Thuốc tê là loại thuốc làm ức chế tạm thời xung động thần kinh từ ngoại biên tới trung ương làm mất cảm giác, đặc biệt là cảm giác đau ở nơi thuốc tiếp xúc. Thuốc tê được sử dụng trong các phương pháp gây tê tại chỗ, gây tê tủy sống, gây tê đám rối, gây tê ngoài màng cứng, gây tê tĩnh mạch… Ngoài ra lidocain đường tĩnh mạch còn được sử dụng làm thuốc chống loạn nhịp tim.
Ngộ độc thuốc tê là một phản ứng có hại nghiêm trọng và có thể gây tử vong cho bệnh nhân.
Hiện tại gây tê là một phương pháp vô cảm thường được sử dụng trong y khoa
Theo FAERS, trong số 12714 báo cáo ADR liên quan tới các trường hợp sử dụng thuốc gây tê của FDA (Cục quản lý Dược phẩm và Thực phẩm Hoa Kỳ) thì có tới 578 trường hợp nghi ngờ ngộ độc thuốc tê. Còn trong cơ sở dữ liệu Quốc gia về ADR tại Việt Nam năm 2018 thì có tới 123 báo cáo liên quan tới các thuốc gây tê.
Cơ chế gây độc
– Cấu tạo
Các thuốc tê thường cấu tạo gồm 3 phần bao gồm chuỗi trung gian nằm giữa cực ưa mỡ và cực ưa nước.
+ Cực ưa mỡ: bản chất là một nhân thơm, tan trong lipid, tăng ái lực với receptor và làm chậm quá tình thủy phân của các esterase nên làm tăng tác dụng và thời gian gây tê.
+ Cực ưa nước: là nhóm amin bậc 2 hoặc bậc 3 làm thuốc có khả năng tan trong nước.
+ Chuỗi trung gian: bao gồm từ 4 – 6 nguyên tử, giúp xác định thời gian tác dụng của thuốc, khả năng chuyển hóa và độc tính của nó. Chuỗi trung gian thường gồm nhóm ester bị thủy phân nhanh và có thời gian tác dụng ngắn hoặc nhóm amid khó bị thủy phân và có tác dụng kéo dài hơn.
– Cơ chế gây độc
Thuốc tê có khả năng ức chế kênh Na+ trên màng tế bào nên ngăn chặn sự khử cực, vì thế luồng thần kinh không thể dẫn truyền qua. Ở liều điều trị, điều này có thể gây tê cục bộ, còn ở nồng độ cao thì điều này có thể gây nhiễm độc thần kinh trung ương và tim mạch.
Bupivacain có thể gây độc cho tim mạch mạnh hơn các thuốc khác do ngoài việc gây ức chế kênh Na+ thì bupivacain còn có khả năng ức chế carnitine acyltransferase là một chất cần thiết cho việc vận chuyển axit béo, dẫn đến rối loạn chức năng ti thể góp phần gây độc cho tim.
Ngoài ra có một số thuốc tê khác (như benzocain, prilocaine, lidocain) có thể gây nên tình trạng xuất hiện methemoglobin trong máu.
– Dược động học
Khi tiêm dưới da, nồng độ thuốc trong máu thường đạt đỉnh sau 10 tới 60 phút tùy vào tính chất mạch máu và thành phần kèm theo như một số chất gây co mạch.
Thuốc dạng ester bị thủy phân nhanh chóng bởi cholineserase trong huyết tương và thời gian bán hủy ngắn, còn thuốc dạng amide có tác dụng dài hơn. Thuốc được chuyển hóa qua gan và nên khi sử dụng ở bệnh nhân suy gan có thể tăng thời gian tác dụng của thuốc và có thể gây tích lũy thuốc khi sử dụng liều lặp lại.
Một số thuốc gây tê thường gặp
Tên thuốc
Nhóm
pKa
Thời gian khởi phát
Khả năng gắn protein
Thời gian duy trì tác dụng
Tính ưa lipid
Hiệu lực
Liều tối đa (đơn độc) (mg/kg)
Liều tối đa khi kết hợp adrenalin
Lidocain
Amid
7.8
Nhanh
++
Trung bình
++
Trung bình
4.5
7
Bupivacain
Amid
8.1
Chậm
++++
Dài
++++
Mạnh
2.5
3
Ropivacain
Amid
8.1
Chậm
+++
Dài
+++
Mạnh
3
3.5
Mepivacain
Amid
7.7
Nhanh
++
Trung bình
++
Trung bình
4.5
7
Cloroprocain
Ester
8
Nhanh
+
Ngắn
++
Trung bình
11
14
– Tác dụng độc
Tình trạng ngộ độc xảy ra khi nồng độ thuốc trong máu vượt qua ngưỡng cho phép. Thuốc có thể gây ngộ độc ngay chỉ với một mũi tiêm dưới da, tiêm tĩnh mạch nhanh với liều nhỏ hơn hoặc sử dụng thuốc lặp đi lặp lại nhiều lần.
Ví dụ với gây tê vùng thì sử dụng lidocain 1,4mg/kg và bupivacain 1,3mg/kg đã có thể gây co giật, còn liều lidocain 2,5mg/kg và bupivacain 1,6mg/kd đã có thể gây ngừng tim.