Chỉ định
Thuốc Betadine xịt họng được chỉ định dùng trong các trường hợp sau:
- Điều trị các bệnh nhiễm trùng cấp tính niêm mạc miệng và họng bao gồm viêm miệng, viêm nướu, loét miệng aphter, viêm họng, viêm amiđan, nhiễm nấm Candida, cảm lạnh thông thường và cúm.
- Để vệ sinh răng miệng trước, trong và sau khi phẫu thuật nha khoa và vùng miệng, ví dụ như sau khi cắt amiđan và các thủ thuật nha khoa.
Dược lực học
Povidon-iod là phức hợp của polymer polyvinylpyrrolidone với iod (povidon-iod) mà sau khi dùng, tiếp tục giải phóng iod trong một khoảng thời gian. Iod nguyên tố (I2) từ lâu đã được biết đến như một tác nhân diệt vi sinh vật có hiệu quả cao và nhanh chóng tiêu diệt vi khuẩn, virus, nấm và một số sinh vật đơn bào in vitro.
Hai cơ chế có liên quan là: Iod tự do nhanh chóng tiêu diệt vi sinh vật, trong khi iod gắn với polymer tác dụng như một nguồn dự trữ. Do thuốc tiếp xúc với da và niêm mạc, ngày càng nhiều iod tách ra khỏi polymer. Iod tự do phản ứng với các nhóm -SH hoặc -OH có thể oxy hóa của các acid amin trong các enzym và protein cấu trúc của các vi sinh vật và do vậy bất hoạt và tiêu diệt các enzyme và protein này. Hầu hết các vi sinh vật sinh dưỡng bị tiêu diệt trong ít hơn một phút in vitro, với phần lớn bị phá hủy trong vòng 15 đến 30 giây. Trong quá trình này, iod bị mất màu; do đó mức độ đậm của màu nâu được coi như là chỉ số về hiệu quả của nó. Có thể cần dùng lại thuốc khi mất màu. Chưa có báo cáo về kháng thuốc.
Dược động học
Hấp thu
Ở người bình thường, iod được hấp thu rất ít vào máu khi dùng tại chỗ. Sản phẩm này được dùng tại chỗ cho miệng và họng.
Povidon (PVP):
Hấp thu và đặc biệt là, thải trừ qua thận của povidon phụ thuộc vào trọng lượng phân tử (trung bình) của hỗn hợp. Với trọng lượng phân tử lớn hơn 35000 đến 50000, phải dự kiến về việc tồn lưu thuốc.
Iod:
Dược động học của iod hoặc iodid sau khi được hấp thu trong các sinh vật phần lớn là tương tự như của iod hấp thu bởi các đường dùng khác. Thể tích phân bố tương ứng với khoảng 38% trọng lượng cơ thể tính bằng kilogam.
Thải trừ gần như hoàn toàn bằng đường thận với độ thanh thải từ 15 đến 60 ml huyết tương/phút tùy thuộc vào nồng độ iod trong huyết thanh và độ thanh thải creatinin.