1.2 Phản ứng dị hóa
Sử dụng các acid amin trong các bắp cơ để tạo ra glucose đáp ứng nhu cầu của cơ thể. Khối cơ bị giảm do việc sử dụng các acid amin để tạo ra glucose đáp ứng nhu cầu của cơ thể, tăng sản xuất ra nitrogen bài tiết qua thận. Mức độ mất nitrogen có liên quan chặt chẽ với tổng diện tích bỏng. Tình trạng mất nitrogen nghiêm trọng kéo dài trong 7-10 ngày đầu sau đó giảm dần trong các tuần lễ sau khi vết bỏng lành .
Việc hỗ trợ dinh dưỡng tích cực là một nguồn cung cấp năng lượng và protein từ bên ngoài, hạn chế được sự giảm sút khối cơ, giảm biến chứng nhiễm trùng, tăng tỷ lệ sống sót và giảm thời gian phải nằm viện. Thời gian hỗ trợ dinh dưỡng tích cực phải được tiếp tục đến sau khi các vết thương lành.
1.3 Phản ứng viêm
Có sự hoạt hóa các bạch cầu tăng sản xuất cytokine, các yếu tố tăng trưởng và các yếu tố hóa ứng động.
Tình trạng tăng chuyển hóa lúc mới bị bỏng kéo theo một sự mất protein (dị hóa protein) trầm trọng trong khoảng 10-14 ngày. Việc hỗ trợ dinh dưỡng tích cực trong giai đoạn này rất quan trọng để hạn chế nguy cơ tử vong. Sự gia tăng chuyển hóa ở bệnh nhân bỏng nặng tỷ lệ thuận với độ trầm trọng, với diện tích của các vết thương và kéo dài cho đến khi phần lớn các vết thương lành sẹo.
Sau giai đoạn này có sự giảm dần dần các quá trình chuyển hóa và dị hóa, vết bỏng lành dần và các quá trình đồng hóa chiếm ưu thế. Sự hỗ trợ dinh dưỡng cũng cần được tiếp tục đến khi bệnh nhân vượt qua khỏi giai đoạn này vì bệnh nhân cần có đủ “nguyên liệu“ cho các quá trình đồng hóa này.
Nếu chúng ta không đáp ứng đủ nhu cầu về năng lượng và protein tăng cao này bằng việc hỗ trợ dinh dưỡng tích cực, cơ thể bệnh nhân sẽ tự tìm lấy năng lượng trong các bắp cơ của mình. Điều này sẽ dẫn đến việc bệnh nhân bị sụt cân, các vết thương chậm lành, việc ghép da (nếu cần) thất bại, đáp ứng miễn dịch bị sụt giảm, các vết bỏng bị nhiễm trùng và làm tăng tỷ lệ tử vong.