2.2. Điều trị nhược thị:
Nhược thị do lác mắt có thể hồi phục tốt nếu được phát hiện và điều trị sớm. Có nhiều phương pháp điều trị nhược thị như:
2.2.1. Phương pháp bịt mắt: Bịt mắt là phương pháp đơn giản nhưng hiệu quả, đặc biệt với trẻ nhỏ. Có thể bịt mắt bằng miếng băng mắt và băng dính hoặc miếng vải sẫm màu được cắt hình bầu dục, hai đầu có dây quấn quanh đầu. Ở những trẻ đã đeo kính, có thể dùng băng keo đục dán lên mắt kính. Có các kiểu bịt mắt như sau:
- Bịt mắt lành: đây là kiểu bịt mắt phổ biến nhất, khi mắt lành bị bịt lại thì mắt lác buộc phải làm việc, do đó thị lực có thể phục hồi. Thời gian bịt mắt phụ thuộc vào độ nhược thị và tuổi bệnh nhân. Có thể bịt từ 3 đến 6 ngày trên tuần. Trong quá trình bịt mắt, đề phòng nhược thị xuất hiện ở mắt bị bịt.
- Bịt mắt lác: nếu nhược thị kèm định thị trung tâm, có thể bịt mắt lác liên tục trong nhiều tuần, trong đó bắt đầu tập luyện chỉnh thị.
- Bịt mắt luân phiên, mỗi ngày bịt một mắt để tập cân bằng 2 mắt.
- Bịt mắt từng lúc: ví dụ như mỗi ngày bịt mắt lành 1 giờ, kết hợp tập luyện mắt lác.
2.2.2. Gia phạt:
Gia phạt là biện pháp dùng thuốc hoặc kính để mắt đạt được một sự cân bằng không gian: một mắt chỉ nhìn xa và một mắt chỉ nhìn gần từ đó tạo ra khả năng thị giác cho cả hai mắt. Các phương pháp gia phạt là:
- Dùng atropin đơn thuần: mắt được nhỏ atropin sẽ không thể nhìn gần được, phương pháp này chỉ dùng cho trẻ nhỏ.
- Gia phạt xa: mắt chủ đạo được cho kính quá mức 3D, mắt kia chỉnh kính đúng số.
- Gia phạt gần: mắt chủ đạo tra atropin hàng ngày và mang kính bình thường, mắt kia mang kính bình thường hoặc hội tụ quá mức 1 đến 3D.
- Gia phạt toàn bộ: mắt chủ đạo tra atropin hàng ngày và chỉnh kính thành cận thị 4D, mắt nhược thị chỉnh kính bình thường.
2.2.3. Điều trị chỉnh thị:
Phương pháp này dùng cho trẻ 5 tuổi trở lên chưa được điều trị bịt mắt hoặc bịt mắt mà không hết nhược thị. Các cách có thể thực hiện là:
- Bệnh nhân bịt mắt tốt hơn sau đó tập tô vẽ hoặc xâu hạt cườm mỗi ngày một giờ.
- Sử dụng các loại máy như euthyscope, synoptophore, co-ordinator,… để điều trị tương ứng võng mạc bất thường và phục hồi định thị trung tâm hoàng điểm.
2.2.4. Điều trị bằng thuốc
Những trường hợp lác trong điều tiết mà không thể đeo kính thì có thể dùng các thuốc co đồng tử mạnh để gây co quắp điều tiết, từ đó làm giảm nhu cầu điều tiết khi nhìn gần và giảm mức độ quy tụ do điều tiết. Thuốc thường dùng là ecothiopat iodua 0.125% ngày 1 lần, hoặc pilocarpin 4% dùng 4 lần/ngày trong 6 tuần. Khi thuốc có tác dụng thì giảm liều dùng. Chỉ nên dùng các thuốc này ngắn hạn vì có thể làm xuất hiện nang mống mắt.
Dùng độc tố botulium: phương pháp này có kết quả tốt trong một số trường hợp. Kim tiêm liều nhỏ độc tố vào cơ đối vận với cơ liệt để làm liệt cơ này trong một thời gian, từ đó tạo thuận lợi cho sự tái lập cân bằng 2 mắt.