Phụ nữ mắc bệnh thận khi mang thai là tương đối hiếm gặp. Việc xác định chính xác tỷ lệ mắc bệnh thận mãn tính trong thời kỳ mang thai là rất khó khăn. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng, phụ nữ mắc mang thai mắc bệnh thận, việc chẩn đoán được tình trạng bệnh trước khi mang thai là 0,03%.
Bệnh suy thận nhẹ thường có diễn biến âm thầm chính vì vậy rất khó để phát hiện bệnh khi ở giai đoạn đầu.
Tình trạng suy thận không liên quan đến thai kỳ vì trên thực tế phụ nữ mắc bệnh suy thận nặng đều vượt quá tuổi sinh đẻ hoặc bị vô sinh.
Suy thận được chia làm 5 giai đoạn.
- Giai đoạn 1 và giai đoạn 2 ảnh hưởng đến 3% phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ ( 20-39 tuổi).
- Giai đoạn 3-5 ảnh hưởng đến 1 trong 150 phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ nhưng vì khả năng sinh sản giảm và tỷ lệ sảy thai sớm nên mang thai ở đối tượng này là ít gặp.
Hầu hết phụ nữ mắc bệnh thận mãn tính khi mang thai bị rối loạn chức năng thận nhẹ và mang thai thường không ảnh hưởng đến tiên lượng thận.
Theo một nghiên cứu thực hiện với 46 trường hợp mang thai ở 38 phụ nữ bị suy thận mãn tính, 22% bị tiền sản giật, 22% sinh non, hạn chế tăng trưởng của thai nhi là 13%, tỷ lệ sinh mổ là 24%.
Tỉ lệ biến chứng thấp trong nghiên cứu này bắt nguồn từ thực tế là gần 90% phụ nữ chỉ bị suy thận nhẹ.
Tăng huyết áp mãn tính, tiền ung thư, thiếu máu hay hạn chế tăng trưởng của thai nhi và sinh non là những biến chứng thường gặp ở phụ nữ mang thai bị suy thận từ nhẹ đến nặng.
Theo một số nghiên cứu cho thấy, những phụ nữ ban đầu bị suy thận nhẹ có nguy cơ suy giảm chức năng thận trong thai kỳ, sau sinh có khoảng một nửa số đó vẫn bị ảnh hưởng.
Nghiên cứu 26 đối tượng mắc bệnh thận trung bình, có tới 62% bị tăng huyết áp mãn tính, 58% bị tiền sản giật và 73% bị thiếu máu. Bên cạnh đó, khoảng 80% phụ nữ bị tăng huyết áp và mắc bệnh thận nhẹ sẽ có nguy cơ bị tiền sản giật so với 30% đối tượng không bị tăng huyết áp và mắc bệnh thận. Tỷ lệ hạn chế tăng trưởng của thai nhi đối với những đối tượng này là 35%, tỷ lệ sinh non là 30%. Trong số những người bị suy thận nặng, 82% bị tăng huyết áp, 64% bị tiền sản giật và 100% bị thiếu máu, 43% tỷ lệ hạn chế tăng trưởng của thai nhi , 86% tỷ lệ sinh non.
Tăng huyết áp mãn tính khiến cho phụ nữ mang thai có nguy cơ bị tiền sản giật và suy giảm chức năng thận. Nguy cơ này có thể được giảm khi tình trạng huyết áp được cải thiện.