Trong giai đoạn chu phẫu, bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường có nguy cơ bị tổn thương cơ quan đích trước mổ. Do đó cần kiểm tra kỹ hệ tim mạch, hô hấp và tiết niệu, cũng như X-quang lồng ngực trước mổ để đánh giá thêm về tim mạch, xung huyết mạch máu phổi hoặc tràn dịch màng phổi. Tiểu đường cũng làm tăng tỷ lệ chênh ST và T âm trong điện tim giai đoạn chu phẫu. Thiếu máu cơ tim có thể biểu hiện rõ ràng trên điện tim dù không có triệu chứng, gọi là nhồi máu cơ tim thể câm.
Khoảng 50% bệnh nhân tiểu đường có tăng huyết áp sẽ xuất hiện bệnh lý thần kinh kết hợp. Hệ thống thần kinh tự động rối loạn nặng ở người cao tuổi, bệnh kéo dài trên 10 năm, bệnh động mạch vành, hoặc sử dụng thuốc chẹn beta. Điều này hạn chế khả năng bù trừ của tim đối với sự thay đổi của mạch máu, như hạ huyết áp sau khởi mê, thậm chí có thể ngừng tim đột ngột. Hơn nữa, rối loạn hoạt động chức năng hệ thần kinh tự động sẽ kéo dài thời gian làm rỗng dạ dày.
Ở những người bệnh tiểu đường béo phì, kèm theo dấu hiệu rối loạn chức năng dẫn truyền thần kinh tim, cần đặc biệt cẩn trọng khi dùng thuốc tiền mê kháng histamin hoặc metoclopramide. Tuy nhiên, tình trạng rối loạn thần kinh tự động có thể ảnh hưởng đến đường tiêu hóa mà không xuất hiện bất kỳ dấu hiệu nào liên quan tới hệ tim mạch.
Biểu hiện đầu tiên của rối loạn chức năng thận là protein niệu, sau đó là tăng cao creatinin huyết thanh. Hầu hết bệnh nhân tiểu đường type I, kèm theo dấu hiệu của suy thận ở tuổi 30, đều có protein niệu và tăng creatinin huyết thanh. Những đối tượng này có nguy cơ nhiễm khuẩn cao do suy giảm hệ miễn dịch. Vì vậy cần đặc biệt chú ý yếu tố vô trùng khi thực hiện các kỹ thuật xâm lấn đường tĩnh mạch và các kỹ thuật xâm lấn khác.
Tăng glucose máu mạn tính có nguy cơ dẫn tới hiện tượng glucosyl hóa protein của mô và hội chứng hạn chế vận động của khớp. Do đó những bệnh nhân đái tháo đường cần được đánh giá đầy đủ về vận động khớp thái dương hàm và cột sống cổ. Từ đó các bác sĩ có thể dự đoán đặt ống nội khí quản khóa – gặp khoảng 30% người bệnh tiểu đường type I.