Mỗi lần hỏi cung bị can, điều tra viên phải lập biên bản. Biên bản phải ghi đầy đủ lời trình bày của bị cáo, điều tra viên hỏi và câu trả lời của bị cáo. Nghiêm cấm Điều tra viên tự mình thêm, bớt, sửa chữa lời khai của bị can.
1. Mọi cuộc thẩm vấn có nên được ghi lại không?
Thưa luật sư, anh trai tôi bị triệu tập lên cơ quan công an để điều tra vụ án hiếp dâm tập thể. Mỗi lần có một bản ghi. Như vậy, cơ quan điều tra đúng hay sai? Căn cứ pháp lý: Khoản 1 Điều 184 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định:
Điều 184. Biên bản hỏi cung bị can
1. Mỗi lần hỏi cung bị can phải lập biên bản. Biên bản hỏi cung bị can được lập theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật này; Lời khai, câu hỏi và câu trả lời của bị cáo phải được ghi đầy đủ. Nghiêm cấm Điều tra viên, Cán bộ điều tra tự ý thêm, bớt, sửa chữa lời khai của bị can. 2. Sau khi hỏi cung, Điều tra viên, Cán bộ điều tra phải đọc bản tường trình cho bị can hoặc tự mình đọc bản tường trình. Trường hợp bổ sung, sửa chữa bản tường trình thì Dự tra viên, Cán bộ điều tra và bị cáo cùng ký xác nhận. Nếu biên bản dài trên một trang thì bị can phải ký vào từng trang của biên bản. Nếu bị can chuẩn bị bản tự khai thì Điều tra viên, cán bộ điều tra và bị can cùng ký xác nhận vào bản tự khai này. 3. Trong trường hợp hỏi cung bị can có người phiên dịch thì Điều tra viên hoặc cán bộ điều tra phải giải thích quyền, nghĩa vụ của người phiên dịch, đồng thời giải thích cho bị can về quyền yêu cầu thay đổi người phiên dịch; người phiên dịch phải ký vào từng trang của biên bản hỏi cung. Trong trường hợp hỏi bị can có mặt luật sư bào chữa hoặc người đại diện của bị can thì Điều tra viên, Cán bộ điều tra phải giải thích cho những người này về quyền và nghĩa vụ của họ khi hỏi bị can. Bị cáo, luật sư bào chữa và người đại diện của họ cùng ký tên vào biên bản hỏi cung. Trong trường hợp người bào chữa được mời để hỏi bị can thì biên bản phải ghi đầy đủ nội dung hỏi của người bào chữa và lời trả lời của bị can. 4. Trường hợp Kiểm sát viên hỏi bị can thì biên bản được lập theo quy định tại Điều này. Biên bản hỏi cung bị can được gửi ngay cho điều tra viên để bổ sung vào hồ sơ.
2. Biên bản là gì?
1. Khi tiến hành tố tụng phiên tòa, biên bản phải được lập theo mẫu thống nhất. Biên bản ghi rõ địa điểm, giờ, ngày, tháng, năm tiến hành tố tụng, thời điểm bắt đầu, thời gian kết thúc, nội dung tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng hoặc những người có liên quan tố tụng, khiếu nại, yêu cầu hoặc kiến nghị của họ. 2. Biên bản phải có chữ ký của những người do bộ luật này quy định. Những điểm sửa chữa, thêm, bớt, tẩy xóa trong biên bản phải được họ ký xác nhận. Trường hợp những người tham gia tố tụng không ký vào biên bản thì người soạn thảo ghi rõ lý do và mời người chứng kiến ký vào biên bản. Trường hợp những người tham gia tố tụng không biết chữ thì báo cáo viên đọc biên bản cho họ nghe trước mặt những người chứng kiến. Biên bản phải có điểm chỉ của những người tham gia tố tụng và chữ ký của người làm chứng. Trường hợp người tham gia tố tụng bị khuyết tật về tâm thần, thể chất hoặc vì lý do khác không thể ký vào biên bản thì người ghi biên bản đọc biên bản cho họ nghe trước sự chứng kiến của người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác. Biên bản phải có chữ ký của những người làm chứng.
3. Biên bản do máy vi tính lập có thể không phản ánh chính xác, đầy đủ diễn biến hoạt động hỏi cung bị can.
Dùng bút dạ ghi (viết tay) ra giấy: phản ánh đầy đủ, chính xác toàn bộ quá trình hỏi cung bị can, các câu hỏi và câu trả lời được ghi cụ thể, chi tiết, một chữ hoặc một đoạn được viết thành que tính. Mọi thao tác xóa hoặc thêm đều để lại dấu vết trên giấy. Thông thường muốn thêm thì phải viết vào hoặc chèn vào phần đã viết trước đó; nếu ít hơn thì gạch bỏ phần viết; Nếu nó được chỉnh sửa, nó cũng sẽ được chỉnh sửa trên phần đã viết. Vì vậy, những chỗ thêm, bớt, sửa đều hiện hữu trên giấy, có thể nhìn thấy bằng mắt thường nên đây là nội dung “gốc”. – Dùng máy tính để gõ: Máy tính có các chức năng xóa, copy, thêm rất đơn giản. Khi nào cần xóa: di chuyển con trỏ chuột đến vị trí xác định, sau đó dùng phím “delete” (gạch bỏ, xóa); khi cần thêm: di chuyển con trỏ chuột đến vị trí xác định, sau đó gõ thêm nội dung. Nhìn vào biên bản ta không thấy nội dung “gốc” vì: phần bị xóa không còn và phần mới thêm vào không khác gì những phần còn lại. Như vậy, sự thay đổi về “lượng” (ít hay nhiều) có thể dẫn đến sự thay đổi về “chất”, không thể giữ nguyên trạng báo cáo, có thể nói báo cáo này không khách quan, đầy đủ, lịch sử và cụ thể.
4. Biên bản xét hỏi bị can của Kiểm sát viên
Hỏi bị can là một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 42; Điều 183 và Điều 236 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) thì đó là hoạt động thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, ràng buộc Kiểm sát viên với hoạt động điều tra, nhằm bảo đảm cho việc điều tra, truy tố và xét xử đúng đắn. , phù hợp với quy định của pháp luật. Theo quy định tại khoản 4 Điều 183 và khoản 3 Điều 236 Bộ luật tố tụng hình sự thì ở ba giai đoạn tố tụng (điều tra, truy tố và xét xử), khi xét thấy cần thiết, Kiểm sát viên xét hỏi bị can. trực tiếp, bao gồm:
1. Ở giai đoạn điều tra: Bị can có cáo buộc, khiếu nại không có căn cứ liên quan đến hoạt động điều tra; có lý do để kết luận rằng cuộc điều tra đã vi phạm pháp luật. 2. Ở giai đoạn truy tố: Xem xét, hoàn chỉnh tài liệu, chứng cứ để quyết định truy tố. 3. Trong giai đoạn thử thách: Khi Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung nhưng xét thấy không cần thiết phải chuyển hồ sơ cho Cơ quan điều tra. Khi hỏi cung bị can, Kiểm sát viên phải lập biên bản theo quy định tại các điều 133 và 184 của Bộ luật tố tụng hình sự. Việc lập biên bản được lập theo Mẫu số 126/HS (ban hành kèm theo Quyết định số 15/QĐ-VKSTC ngày 09/01/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao). Mẫu biên bản hỏi cung bị can số 126/HS được xây dựng trên cơ sở quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, phong phú về nội dung và phù hợp với hoạt động của Kiểm sát viên. Qua thực tế công tác, tôi nhận thấy việc lập biên bản hỏi cung bị can bằng máy vi tính có ưu điểm là rõ ràng, dễ tra cứu và có những thuận lợi nhất định. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm đó, việc thu giữ biên bản hỏi cung bị can có thể tiềm ẩn những vấn đề sau:
1. Không tuân thủ các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự liên quan đến việc lập biên bản nói chung và lập biên bản hỏi cung bị can nói riêng
Điều 133 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: Biên bản
“Đầu tiên. Khi tiến hành tố tụng, biên bản phải được lập theo mẫu thống nhất. Biên bản ghi rõ địa điểm, giờ, ngày, tháng, năm tiến hành tố tụng, thời điểm bắt đầu, thời gian kết thúc, nội dung tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng hoặc những người có liên quan tố tụng, khiếu nại, yêu cầu hoặc kiến nghị của họ. 2. Biên bản phải có chữ ký của những người theo quy định của Bộ luật này. Những điểm sửa chữa, bổ sung, tẩy xóa trong biên bản phải được họ ký xác nhận…”
Điều 184 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: Biên bản hỏi cung bị can
“Đầu tiên. Mỗi lần hỏi cung bị can đều phải có biên bản.
Biên bản hỏi cung bị can được lập theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật này; Lời khai, câu hỏi và câu trả lời của bị cáo phải được ghi đầy đủ. Nghiêm cấm Điều tra viên, Cán bộ điều tra tự ý thêm, bớt, sửa chữa lời khai của bị can. 2. Sau khi hỏi cung, Điều tra viên, Cán bộ điều tra phải đọc lời khai cho bị can hoặc tự mình đọc lời khai. Trong trường hợp bổ sung, sửa chữa bản tường trình thì Điều tra viên, Cán bộ điều tra và bị cáo cùng ký xác nhận. Nếu biên bản dài trên một trang thì bị can phải ký vào từng trang của biên bản. Trong trường hợp bị can lập bản tự khai thì Điều tra viên, Cán bộ điều tra và bị can cùng ký tên, xác nhận vào bản tự khai…”
Như vậy, các điều luật nêu trên đều có quy định về việc “ghi” biên bản hỏi cung bị can. Theo Đại từ điển tiếng Việt, “ghi chép” được hiểu là: Dùng chữ viết hoặc ký hiệu để lưu giữ nội dung nào đó, nhìn lại có thể biết hoặc nhớ lại nội dung đó. Quy định về “lập biên bản” này có mối quan hệ mật thiết với phần giả định: “Những điểm cần cải chính, bổ sung, gạch bỏ, xóa bỏ trong biên bản”, (tại điều 133 BLTTDS) và “trường hợp bổ sung, sửa chữa để đính chính”. biên bản…” (tại khoản 2, Điều 184 BLTTDS) và quy định về “chữ ký xác nhận” trong các điều luật, vì: Chỉ có chữ viết trên giấy mới thể hiện rõ chỗ sửa chữa, thêm, bớt. xóa thì cần ký xác nhận, dùng máy tính để chỉnh sửa những phần đã sửa, thêm, xóa không được để lại trên chứng từ nên không cần ký xác nhận. Dựa trên phân tích này, tôi tin rằng Mục 133; Điều 184 Bộ luật tố tụng hình sự quy định khi lập biên bản nói chung, biên bản hỏi cung bị can nói riêng, bị can phải viết tay. 2. Vi phạm chế độ bảo mật của Văn phòng Công tố
Biên bản hỏi cung bị can là một trong những tài liệu quan trọng trong hệ thống tài liệu có chế độ bảo mật ưu tiên. Hầu hết các bị cáo đều bị áp dụng biện pháp ngăn chặn và bị giam giữ tại các trại tạm giam. Trong trường hợp Kiểm sát viên sử dụng máy vi tính để lập biên bản hỏi cung bị can thì phải có máy in để in biên bản đó để duyệt và ký vào biên bản đó ngay sau khi kết thúc việc hỏi cung bị can. . Thực tế máy in khá cồng kềnh nên kiểm sát viên không mang theo mà sử dụng máy in của người khác nên có thể xảy ra các trường hợp sau:
– Máy tính không tương thích với máy in nên Kiểm sát viên phải sử dụng máy tính của người khác;
– Bị tố không mang theo USB hoặc USB có chất lượng không tốt nên phải sử dụng USB của người khác. Trong hai trường hợp trên, nếu Kiểm sát viên sau khi in ra mà không xóa biên bản trên máy tính hoặc trên USB thì biên bản hỏi cung vẫn tồn tại trên máy tính và USB của người khác, phiếu hỏi cung không còn được bảo mật. cách thức. 3. Biên bản do máy vi tính lập có thể không phản ánh chính xác, đầy đủ diễn biến hoạt động hỏi cung bị can.
– Dùng bút viết (viết tay) ra giấy: phản ánh đầy đủ, chính xác toàn bộ quá trình hỏi cung bị can, các câu hỏi và câu trả lời được ghi cụ thể, chi tiết, gạch bỏ một chữ hoặc một đoạn. Mọi thao tác xóa hoặc thêm đều để lại dấu vết trên giấy. Thông thường muốn thêm thì phải viết vào hoặc chèn vào phần đã viết trước đó; nếu ít hơn thì gạch bỏ phần viết; Nếu nó được chỉnh sửa, nó cũng sẽ được chỉnh sửa trên phần đã viết. Vì vậy, những chỗ thêm, bớt, sửa đều hiện hữu trên giấy, có thể nhìn thấy bằng mắt thường nên đây là nội dung “gốc”. – Sử dụng máy tính để đánh máy: Máy tính có các chức năng xóa, chép, thêm rất đơn giản. Khi nào cần xóa: di chuyển con trỏ chuột đến vị trí xác định, sau đó dùng phím “delete” (gạch bỏ, xóa); khi cần thêm: di chuyển con trỏ chuột đến vị trí xác định, sau đó gõ thêm nội dung. Nhìn vào biên bản ta không thấy nội dung “gốc” vì: phần bị xóa không còn và phần mới thêm vào không khác gì những phần còn lại. Như vậy, sự thay đổi về “lượng” (ít hay nhiều) có thể dẫn đến sự thay đổi về “chất”, không thể giữ nguyên trạng báo cáo, có thể nói báo cáo này không khách quan, đầy đủ, lịch sử và cụ thể.
4. Bất tiện, khó quản lý bị can
Trước và sau khi hỏi cung bị can, Kiểm sát viên phải giao, nhận bị can tại cơ sở trại giam. Khi nhận, bị cáo chịu sự chỉ đạo của công tố viên. Khi kết thúc hỏi cung, nếu là biên bản viết tay thì việc duyệt và ký xác nhận ngay, nhưng với biên bản được lập trên máy vi tính thì Kiểm sát viên phải in ra, sau đó duyệt và ký xác nhận. Phòng hỏi cung không có máy in và kiểm sát viên không mang theo máy in nên kiểm sát viên phải ra khỏi phòng; Quá trình in có thể gặp sự cố dẫn đến thời gian in kéo dài. Việc quản lý bị can trong giai đoạn này có thể bị buông lỏng dẫn đến hậu quả khó lường. Đối với Viện Kiểm sát, ngoài việc đảm bảo chất lượng kiểm sát xét xử còn phải đảm bảo chất lượng hoạt động công tố. Như vậy, khi thực hiện nhiệm vụ phục vụ công tố trong ba giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử, Kiểm sát viên phải bảo đảm tuân thủ đúng quy định của pháp luật. . Nhận thức sai, chưa đầy đủ có thể là nguyên nhân dẫn đến những vi phạm, thiếu sót trong việc lập biên bản hỏi cung bị can, dẫn đến hậu quả: biên bản hỏi cung bị can không có giá trị pháp lý. ; vi phạm chế độ bảo mật, không theo dõi bị can. Tôi cho rằng cần kiến nghị Viện kiểm sát nhân dân tối cao xem xét và chỉ đạo cụ thể việc lập biên bản hỏi cung bị can của Kiểm sát viên. Trong thời gian chờ hướng dẫn, chúng ta nên lập biên bản hỏi cung bị can bằng hình thức viết tay để chủ động phòng ngừa vi phạm, rủi ro.
5. Bình luận, phân tích bản hỏi cung bị can theo quy định Biên bản hỏi
cung bị can là tài liệu phản ánh nội dung, kết quả hoạt động điều tra có ý nghĩa quan trọng và là một trong những nguồn chứng cứ. Như vậy, để đảm bảo giá trị pháp lý của việc hỏi cung, việc lập biên bản hỏi cung bị can phải tuân theo quy định tại Điều 133 và Điều 178 Bộ luật tố tụng hình sự. Mỗi lần hỏi cung bị can, điều tra viên phải lập biên bản. Biên bản phải ghi đầy đủ lời trình bày của bị cáo, điều tra viên hỏi và câu trả lời của bị cáo. Nghiêm cấm Điều tra viên tự mình thêm, bớt, sửa chữa lời khai của bị can. Sau khi hỏi cung xong, Điều tra viên đọc lại hồ sơ cho bị can hoặc để bị can tự đọc. Trường hợp bổ sung, sửa chữa biên bản thì bị can và Dự thẩm viên phải ký xác nhận. Nếu biên bản có nhiều trang thì bị can phải ký vào từng trang của biên bản. Trong trường hợp bị can tự viết lời khai thì Điều tra viên và bị can cùng ký vào bản khai và Điều tra viên phải lập luôn biên bản hỏi cung, không được viết bản tự khai thay cho biên bản hỏi cung. Nếu việc hỏi cung được ghi âm và muốn nhập băng ghi âm thì khi bắt đầu hỏi cung, Điều tra viên phải thông báo cho bị can biết và khi kết thúc phải phát lại đoạn băng ghi âm nội dung cuộc hỏi cung đã hẹn để Điều tra viên và bị can biết. buộc tội để được nghe. Cần lưu ý rằng việc ghi âm nội dung hỏi cung không thay thế biên bản hỏi cung. Vì vậy, khi hỏi cung bị can, Điều tra viên phải luôn ghi âm cuộc hỏi cung, kể cả trường hợp có ghi âm. Sau khi kết thúc việc hỏi cung, Điều tra viên đọc lại biên bản hỏi cung bị can và ký xác nhận vào biên bản hỏi cung. Trong biên bản hỏi cung có ghi rõ bị cáo đã nghe đoạn ghi âm cuộc hỏi cung và xác nhận đó là sự thật.
Khi hỏi bị can có người phiên dịch, Điều tra viên phải giải thích quyền, nghĩa vụ của người phiên dịch, đồng thời giải thích cho bị can về quyền yêu cầu thay đổi người phiên dịch. Người phiên dịch và bị cáo cùng ký vào từng trang của biên bản hỏi cung. – Khi hỏi cung có mặt luật sư bào chữa hoặc người đại diện hợp pháp của bị can thì Điều tra viên phải giải thích cho những người này biết quyền và nghĩa vụ của họ khi hỏi cung bị can. Bị cáo, luật sư bào chữa, người đại diện hợp pháp phải cùng ký tên vào biên bản hỏi cung. Trong trường hợp luật sư bào chữa có thể hỏi bị can thì biên bản phải ghi đầy đủ câu hỏi của luật sư bào chữa và câu trả lời của bị cáo.