William Henry Gates III hay gọi là Bill Gates sinh ngày 28/10/1955 trong một gia đình giàu truyền thống làm kinh doanh và chính trị. Cụ nội của Bill Gates là một nhà lập pháp và là thị trưởng của tiểu bang. Ông nội của Gates là Phó chủ tịch của Ngân hàng quốc gia và cha của Gates là một luật sư xuất chúng.
Ngay từ khi mới sinh, Gates đã thừa hưởng về sự thông minh, tham vọng và tinh thần cạnh tranh mà đã giúp những bậc tiền bối của Gates có được những vị trí cao trong sự nghiệp.
Học ở trường trung học cơ sở, nhờ có bộ óc như một thần đồng mà Bill Gates đã trội hơn tất cả bạn bè trong lớp và trường, hầu như là ở tất cả các môn học, đặc biệt là môn toán và các môn khoa học. Cha mẹ của Bill đã nhận thấy trí thông minh của cậu và đưa đến Trường Lakeside, một ngôi trường tư thục vốn nổi tiếng là nghiêm ngặt và có môi trường học cạnh tranh căng thẳng. Và quyết định này đã có những ảnh hưởng rất lớn đến cuộc đời của cậu bé Bill Gates.
Ở Trường Lakeside, lần đầu tiên Bill Gates được giới thiệu về máy tính (thời đó máy tính rất cồng kềnh và còn rất hiếm). Tại đây, Bill Gates đã gặp Paul Allen, người mà chỉ 7 năm sau đó đã lập nên Tập đoàn Microsoft. Mặc dù Paul Allen lớn hơn Gate 2 tuổi nhưng họ lại rất hợp nhau và đều có đam mê là thích được khám phá máy tính. Họ có thể ngồi trong phòng máy cả ngày lẫn đêm, viết phần mềm, đọc tài liệu về máy điện toán và bất cứ kiến thức nào về máy tính. Ở tuổi 13, Gates đã viết được chương trình phần mềm, đây là điều dường như chưa ai trước đó có thể làm được.
Học ở Trường Lakeside không lâu thì Bill Gates và những người bạn khác đã phải đối mặt với những vấn đề ở lớp: bài tập làm ở nhà của họ luôn bị nộp trễ, họ liên tục bỏ học ở lớp để dán mắt vào màn hình máy tính và tồi tệ hơn cả là họ đề ra mục tiêu là dành thời gian học máy tính ở trường chỉ trong một vài tuần.
Bill Gates, Paul Allen và Kent Evans đã lập ra nhóm Những nhà lập trình Trường <?xml:namespace prefix = st1 />Lakeside. Cái tên có vẻ rất trưởng thành này đã giúp ba cậu bé kiếm được một việc làm thực sự vào thời gian rảnh rỗi, ví dụ như viết chương trình tính lương cho một công ty ở Seattle. Thế rồi họ đã học cách trở thành những nhà kinh doanh ngay từ khi còn chưa phát triển đầy đủ. Với bộ óc vô cùng nhạy bén cùng với niềm đam mê khám phá điện toán, Gates và Allen đã học được rất nhiều điều đáng quý trong phần mềm cũng như trong các vụ làm ăn. Cả hai bắt đầu có những hợp tác kinh doanh thật sự diễn ra vào mùa hè năm 1972.
Bỏ học đại học để tập trung kinh doanh
Năm 1973, Gates học xong trung học và theo lời cha anh đã ghi tên vào học ở Trường đại học danh tiếng Harvard. Mặc dù rất ít học bài vở ở trường nhưng Gates lại luôn được điểm cao trong lớp nhờ bộ óc thông minh. Gates luôn đề ra mục tiêu là học hiểu ngay tại lớp và không phải học bài ở nhà, thời gian học bài ở nhà sẽ dành cho công việc kinh doanh và nghiên cứu máy tính. Phải nói rằng, Gates là một siêu toán của trường và từng lọt vào trong tốp 10 học sinh đứng đầu về kỳ thi năng khiếu toán của nước Mỹ cho dù hay trốn học.
Đến đầu năm 1975, thấy cơ hội đã đến, Bill Gates đã cùng Paul Allen (cũng bỏ học đại học) để lập ra Microsoft. Mới đầu thì công việc kinh doanh của Bill Gates không có gì đặc sắc, hai năm sau thì Gates quyết định bỏ học để tập trung vào phát triển công ty. Mặc dù bị cha mẹ phản đối rất dữ nhưng trước những lời thuyết phục “lọt tai” và đầy nhiệt huyết của Gates nên họ cũng đành bằng lòng. Gates giải thích rằng, mình bỏ học phần lớn là vì đã nhìn thấy cơ hội của mình đang đến gần và không thể bỏ qua. Nhưng mọi người có thể thấy đây là câu giải thích khiêm tốn của Gates, bởi ông là một tài năng mà không phải người nào cũng có được.
Sau khi thành lập công ty, Bill Gates và Paul Allen đã bù đầu trong công việc, rất hiếm khi thấy họ được đi chơi. Công việc của họ thường kéo dài đến tận quá nửa đêm. Người ta thấy nhiều khi Gates còn ngủ ngay tại bàn làm việc do quá mệt mỏi. Allen thường đi về nhà trọ của cả hai để nghỉ nhưng thường bị dựng dậy bởi tiếng rung chuông điện thoại của Gates gọi đến từ công ty.
Mọi chuyện bắt đầu vào năm 1979, khi Tập đoàn sản xuất máy tính khổng lồ IBM có kế hoạch nhằm phổ biến rộng rãi loại máy tính của mình trên khắp thế giới, do vậy hãng tìm một đối tác đáng tin cậy với mục tiêu: IBM sản xuất tốt phần cứng, còn đối tác sản xuất tốt phần mềm. Sở dĩ IBM không muốn làm cả khâu sản xuất phần mềm là bởi vì hãng này sợ rằng nếu họ đầu tư vào việc cải tiến và phát triển phần mềm thì sẽ mất rất nhiều thời gian và tiền bạc. Nó sẽ làm hỏng kế hoạch tung ra loại máy tính “hiện đại” và rẻ hơn của hãng đúng như đã hoạch định. Do vậy mà IBM đã chọn đối tác sản xuất phần mềm là Microsoft.
Trong khi đó, Bill Gates thì lúc nào cũng lo lắng rằng, các hãng khác sẽ tự mình làm hết công việc viết phần mềm mà Microsoft đang dốc sức đầu tư, và lúc đó Microsoft chỉ còn đứng ngoài nhìn họ tiến bước. Do vậy, Gates và người đồng sáng lập ra Microsoft là Paul Allen đã làm việc ngày đêm để cho ra đời những sản phẩm mới và họ làm tất cả những gì có thể.
Khi IBM cử hai nhân viên của mình đến Microsoft để bàn kế hoạch hợp tác, họ nói IBM muốn Microsoft bán cho chương trình phần mềm viết bằng ngôn ngữ lập trình Fortran và Cobol. Thực sự thì lúc đó Microsoft chưa có loại phần mềm này, nhưng Gates và Allen đang nắm trong tay thế thượng phong. Cả hai đã biết được loại phầm mềm của Hãng Seattle Computer mà rất ít người biết đến có tên là Q-DOS. Gates và Allen nhận ra rằng, nếu họ mua được phần mềm này thì họ có thể bán lại quyền sử dụng cho IBM, đồng thời phát triển thêm được nhiều tính năng của Q-DOS. Do vậy, Microsoft đã mạo hiểm ký bán phầm mềm Q-DOS cho IBM trước khi ký mua chương trình phầm mềm này của Seattle Computer.
Có thể nói, hai ngày chờ chấp nhận của Seattle Computer là hai ngày đứng ngồi không yên của Gates và Allen. Cả hai e rằng, nếu Seattle Computer mà biết được chuyện này thì họ sẽ lên giá thật đắt thậm chí là không bán cho Microsoft mà bán thẳng cho IBM. Nhưng chính bản thân IBM cũng muốn giữ kín vụ làm ăn nên họ cũng kín đáo không để lộ hợp đồng này ra ngoài. Nhờ đó mà Microsoft mua được Q-DOS chỉ với giá 50.000 USD. Từ Q-DOS, Microsoft đã phát triển thành MS-DOS, Windows và dần trở thành một công ty phần mềm lớn nhất địa cầu như ngày nay.
Tất nhiên, Q-DOS đã được hệ thống hóa và được cải tiến rất nhiều trước khi trở thành loại phần mềm MS-DOS. Cũng từ vụ hợp đồng sộp trên, Microsoft đã dụ dỗ được Tim Paterson của Seattle Computer về làm cho mình. Tim Paterson người đã viết ra hệ điều hành Q-DOS. Sở dĩ Bill Gates “nẫng” được chuyên gia giỏi này là bởi vì ông không chỉ dùng tiền bạc để chiêu dụ Tim mà còn dùng cả tình cảm, lý trí và nhiều hậu đãi khác.
Trong khi đó, Bill Gates và Paul Allen vẫn tiếp tục tham gia công việc phát triển sản phẩm, trực tiếp tạo ra các mã lệnh và tiếp thị sản phẩm. Người ta thấy Bill Gates khi ấy lúc nào cũng căng thẳng, quần áo không phẳng phiu như bây giờ. Điều đó cũng thật dễ hiểu bởi Gates làm việc mỗi ngày 16 tiếng và nhiều khi người ta vẫn thấy Gates gục ngủ ngay tại bàn làm việc.-PageBreak-
Qua năm tháng, phiên bản mới của MS-DOS liên tục được cải tiến nhờ sự sáng tạo tuyệt vời của Gates và các đồng nghiệp trong công ty. Thậm chí, khi ra mắt hệ điều hành đồ họa Windows, MS-DOS vẫn còn là hệ điều hành hỗ trợ vững chắc. Ngay cả khi Intel phát minh ra những bộ vi xử lý cực nhanh, thì MS-DOS cũng được nâng cấp để hoạt động tương thích với tốc độ nhanh đó.
Có thể nói, phần lớn sự thành công của Microsoft đều xuất phát từ việc công ty này đã tạo ra được bên trong MS-DOS một hệ điều hành có thể dùng làm nền tảng vững chắc cho các thế hệ điều hành phức tạp hơn về sau này và cho vô số những phần mềm ứng dụng khác.
Năm 1980, Tập đoàn Apple đã nổi lên như một ngôi sao trên bầu trời tin học và trở thành đối thủ cạnh tranh của IBM, nhưng Microsoft lại viết phần mềm cho cả hãng này với tên là hệ điều hành CP/M do vậy mà làm cho IBM không hài lòng.
Đúng như dự đoán của Bill Gates, ngành công nghiệp điện toán ngày càng phát triển mạnh mẽ và những chương trình phần mềm của Microsoft đã được cài đặt trên hàng triệu triệu máy tính, nhờ vậy mà tiền của Bill Gates và Paul Allen cũng được nhân lên từng ngày. Nhưng trong lúc Microsoft đang phát triển thần kỳ thì Paul Allen mắc phải bệnh Hodgkin, một loại bệnh ung thư. Sau gần hai năm được điều trị, Allen đã phục hồi nhưng anh đã rút khỏi chân trong ban điều hành của Microsoft. Tuy nhiên, Allen vẫn có cổ phần trong Microsoft và là cố vấn đắc lực cho Bill Gates.
Tổng hợp những tinh hoa về Microsoft
Lúc này, công việc nặng nhọc đè nặng lên chỉ một mình Bill Gates. Cùng với việc không ngừng phát triển sản phẩm, Bill Gates còn muốn thâu tóm tất cả các tinh hoa sản phẩm của những công ty khác về phía mình. Hễ cứ thấy công ty nhỏ nào cho ra đời một vài sản phẩm có nhiều ưu việt và mang tính chiến lược là Gates lại gạ mua đứt sản phẩm đó, hoặc mua luôn cả công ty đó nhằm quy tụ những nhân tài giỏi về làm việc cho công ty mình.
Trải qua hai lần tung ra chương trình Windows bị thất bại, đến năm 1992 thì Windows 3.1 với nhiều ưu việt đã được bán trên thị trường. Đây là chiến dịch đầy mạo hiểm và nếu như không thành công thì khả năng Microsoft sẽ bị phá sản bởi hãng không còn mối ràng buộc nào với IBM nữa. Thế nhưng, đúng như mong đợi của Gates, Windows 3.1 đã nhanh chóng nổi tiếng và lan rộng khắp hành tinh. Nó trở thành hệ điều hành chuẩn mực cho máy tính cá nhân và đánh bạt tất cả các hệ điều hành khác.
Trong năm đầu, Windows 3.1 đã được cài đặt ở hàng chục triệu máy tính cá nhân trên toàn thế giới và cài đặt trên 90% số máy tính được mua từ năm 1992 đến tháng 8/1995, trước thời điểm Microsoft tung ra Windows 95. Lúc này Microsoft đã trở thành kẻ thống trị phần mền và giúp cho thần đồng tin học này kiếm được tiền qua từng giây, nhanh chóng gia nhập câu lạc bộ những người có tiền tỉ.
Khi Windows 95 được tung ra thị trường, nó đã làm lu mờ các sản phẩm khác và đã có hàng triệu phiên bản được mua ngay trong ngày đầu tiên được phát hành. Và số lượng tiêu thụ phần mềm Windows vượt qua cả sức tưởng tượng của Bill Gates cũng như giới đầu tư chứng khoán ở phố Wall và cũng kể từ năm này trở đi, Bill Gates trở thành người giàu có nhất hành tinh và ngôi vị này vẫn được duy trì cho đến ngày nay (theo tạp chí Forbes thì tài sản của Gates năm nay là 50 tỉ USD).
Trải qua nhiều bão tố, ngày nay, Microsoft là biểu tượng của nước Mỹ và trở thành một trong hai tập đoàn công nghiệp thành công nhất trong lịch sử nước Mỹ, chiếm hơn 90% thị phần thế giới về phần mềm hệ điều hành. Bản thân Bill Gates được ví như một bậc vĩ nhân, được mọi giới trẻ trên hành tinh ngưỡng mộ. Ông không chỉ là một thần đồng về tin học mà còn là bậc thầy về kinh doanh, quản lý và là một nhà làm từ thiện lớn nhất trong lịch sử (Bill Gates hứa sẽ dành hầu hết số tài sản của mình làm từ thiện).
Microsoft đã tạo ra được rất nhiều sản phẩm ưu việt nhưng theo Gates thì điều đó chưa đủ mà còn phải biết marketing. Gates cũng đã dùng nhiều chiến lược để chống lại hàng chục bản tố cáo độc quyền của các tiểu bang và các công ty khác. Nhờ có bộ óc luồn lách giỏi của Bill Gates nên Microsoft tránh bị tách ra làm nhiều công ty nhỏ độc lập giống như Tập đoàn Dầu lửa Standard Oil Company mà trước đây J.D. Rockefeller từng lũng đoạn nước Mỹ một thời