Một số vấn đề chủ yếu về tố cáo sai sự thật
Luật Tố cáo năm 2018 giải thích: “Tố cáo là việc cá nhân theo thủ tục quy định của Luật này báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”(1).
Hiến pháp năm 2013, quy định: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân”(2).
Như vậy, tố cáo là quyền của công dân do Hiến pháp, pháp luật quy định. Cán bộ, đảng viên cũng là công dân và họ cũng có quyền tố cáo theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Từ những điều nêu trên, có thể hiểu: Tố cáo là quyền của công dân Việt Nam do Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định; đó là việc người dân theo quy định của Luật Tố cáo báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; để cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền tiến hành giải quyết, nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Nội dung tố cáo: Một là, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức; hoặc của người khác được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ; người không còn là cán bộ, công chức, viên chức, nhưng đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật trong thời gian là cán bộ, công chức, viên chức; người không còn được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ, nhưng đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật trong thời gian được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ. Hai là, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào về việc chấp hành quy định của pháp luật, trừ hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ.
Hình thức tố cáo: Việc tố cáo được thực hiện bằng đơn hoặc được trình bày trực tiếp tại cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
Luật Tố cáo giải thích: Giải quyết tố cáo là việc thụ lý, xác minh, kết luận nội dung tố cáo và xử lý kết luận nội dung tố cáo của người giải quyết tố cáo. Do vậy, có thể hiểu: Giải quyết tố cáo là hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền làm cho các hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân bị ngăn chặn, loại trừ, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Luật Tố cáo cũng quy định các hành vi bị nghiêm cấm trong tố cáo, bao gồm cố ý tố cáo sai sự thật; cưỡng ép, lôi kéo, kích động, dụ dỗ, mua chuộc người khác tố cáo sai sự thật; sử dụng họ tên của người khác để tố cáo; lợi dụng quyền tố cáo để tuyên truyền chống Nhà nước, xâm phạm lợi ích của Nhà nước; gây rối an ninh, trật tự công cộng; xuyên tạc, vu khống, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác.
Cùng với quyền tố cáo theo quy định của pháp luật, người cán bộ còn phải chấp hành nghiêm quy định về tố cáo trong Luật Cán bộ, công chức. Luật này quy định cán bộ không được làm những việc khác với quy định của pháp luật và của cơ quan có thẩm quyền. Như vậy, cán bộ phải gương mẫu chấp hành nghiêm chỉnh những điều nghiêm cấm về tố cáo, theo Luật Tố cáo và Luật Cán bộ, công chức,
Đảng viên có quyền tố cáo theo quy định của pháp luật, gương mẫu chấp hành những điều nghiêm cấm trong tố cáo theo Luật Tố cáo nêu trên; đồng thời, còn phải chấp hành những quy định của Đảng về tố cáo. Quy định số 22-QĐ/TW, ngày 28-7-2021, của Ban Chấp hành Trung ương, “về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng” chỉ rõ: “Những người lợi dụng việc tố cáo để xuyên tạc sự thật, vu khống, tố cáo bịa đặt, đả kích, chia rẽ bè phái, gây rối nội bộ, tố cáo nhiều lần có dụng ý xấu phải được xem xét, xử lý nghiêm theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước”(3); “Không giải quyết đơn tố cáo nặc danh, giấu tên,… đơn tố cáo có từ hai người trở lên cùng ký tên”(4); “Cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp giải quyết tố cáo phải xử lý hoặc đề nghị xử lý nghiêm những trường hợp… lợi dụng tố cáo để xuyên tạc sự thật, vu khống, tố cáo mang tính bịa đặt, đả kích, gây dư luận xấu đối với người khác”(5).
Điều 6, Quy định số 37-QĐ/TW, ngày 25-10-2021, của Ban Chấp hành Trung ương, “Quy định về những điều đảng viên không được làm”, chỉ rõ những hành vi cụ thể, không được làm là: “Tố cáo có nội dung mang tính bịa đặt; cùng người khác viết, ký tên trong đơn tố cáo; viết đơn tố cáo giấu tên, mạo tên. Gửi hoặc phát tán đơn khiếu nại, tố cáo dưới mọi hình thức đến nơi không có thẩm quyền giải quyết…; kích động, xúi giục, mua chuộc, cưỡng ép người khác khiếu nại, tố cáo”(6).
Tố cáo đúng đắn, nghiêm túc và việc giải quyết tố cáo đúng đắn, kịp thời, hiệu quả sẽ có tác dụng to lớn về nhiều mặt: Góp phần thực hiện nghiêm pháp luật, trước hết là Luật Tố cáo, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xử lý kịp thời cá nhân, tập thể sai phạm, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, công chức, đảng viên, góp phần giữ nghiêm kỷ luật đảng, kỷ cương phép nước; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị; bảo đảm an ninh, trật tự ở địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của địa phương và đất nước; thông qua giải quyết tố cáo, Đảng và Nhà nước tiến hành xem xét lại tính đúng đắn, sự phù hợp của đường lối, chính sách, pháp luật với thực tiễn, để chỉnh sửa, bổ sung hoàn thiện hơn và ban hành những văn bản mới để ngăn chặn, hạn chế việc tố cáo sai sự thật, giải quyết kịp thời, hiệu quả tố cáo.
Theo Đại từ điển tiếng Việt: “Sự thật là cái có thật, có xảy ra”(7), “Sai sự thật” được hiểu là cái không có thật, không xảy ra. Như vậy, có thể hiểu: Tố cáo sai sự thật của cán bộ, đảng viên được hiểu là việc cán bộ, đảng viên bịa ra sự việc, hành vi không có thật, không xảy ra của cá nhân, tổ chức và báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về sự việc, hành vi đó nhằm mục đích đả kích, chia rẽ, bè phái, gây dư luận xấu, gây rối nội bộ.
Tố cáo sai sự thật của cán bộ, đảng viên – những dấu hiệu chính và hậu quả
Một số dấu hiệu về tố cáo sai sự thật của cán bộ, đảng viên
Một là, tố cáo sai sự thật thường xuất hiện cùng với sự xuất hiện của những tố cáo của công dân và tập trung nhiều hơn vào thời điểm chuẩn bị bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân các cấp; đại hội đảng bộ các cấp, bầu cấp ủy khóa mới; quy hoạch, luân chuyển cán bộ; bổ nhiệm cán bộ; cử cán bộ đi học…
Số lượng tố cáo sai sự thật của cán bộ, đảng viên gia tăng, nhiều khi tăng nhanh trong những thời điểm diễn ra những hoạt động nêu trên, nhất là khi thực hiện quy trình nhân sự lãnh đạo, quản lý. Ở một số nơi, khi cấp ủy có thẩm quyền cử cán bộ đi học, nhất là học chương trình cao cấp lý luận chính trị ở Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, thì tố cáo sai sự thật cũng xuất hiện. Điều này đồng nghĩa với việc làm cho cán bộ bị tố cáo đó sẽ không được đưa vào quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý và quy hoạch cấp ủy cho các nhiệm kỳ tiếp theo.