Cá có cơ quan thính giác rất chính xác,đặc biệt khi nghe âm thanh ở tần sóng thấp,những ai từng lặn dưới nước đều biết đó là một thế giới im lặng bởi vì thính giác con người khó xử dụng được ở trong môi trường này.Những đàn cá thường tạo âm thanh qua sóng nước,tiếng động của thùng chứa mồi câu va vào sàn tàu cũng tạo tiếng động xuyên qua nước,bước chân đi trên cát cũng truyền tiếng động đi xuống nước,một số cá nhận nghe được con trùn đang ngoắc ngoải trong nước.Bởi vậy cá rất thính khi dò ra hay nhận biết nhiều tiếng động lạ khác nhau.
Con người và thú vật cũng có những phản ứng trước tiếng động,các nhà khoa học đã chứng minh chó hay các động vật khác có phản xạ khi nghe tiếng chuông hoặc ánh sáng báo hiệu thời điểm ăn,lúc nghe chúng bắt đầu chảy nước miếng trước khi thức ăn mang tới.
Con người cũng phản xạ trước tiếng kèn xe hay còi hụ của xe cứu thương cho nên chúng ta cũng bị ảnh hưởng liên quan đến âm thanh nguy hiểm hay báo hiệu chung quanh ta. Rõ ràng cá đã sống trong một thế giới náo động,một thế giới bao gồm nhiều loại âm thanh tạo ra bởi nhiều thứ,cộng thêm tiếng động của con người tạo nên,như tiếng máy tàu thuyền chạy hay tiếng sonar.
Tần sóng rung đạt tới tai xuyên qua da,thịt,và kể cả xương của cá.Ở một số loài cá phía trong ruột nó còn có đoạn liên kết giữa tai và bong bóng,bong bóng cá hoạt động như một bộ phận tạo âm vang hoặc bộ phận khuyếch đại âm thanh,vì thế nó rất đắc dụng cho cá để dò ra tần sóng rung thật thấp hay thật êm.
Bất cứ loại cá nào có đoạn liên kết giữa bong bóng và tai đều có bộ phận thính giác rất nhạy,nhưng có một điều ngạc nhiên là những loại cá sống ở nơi nước chảy mạnh nhanh thì thính giác lại không bén nhạy như loại cá sống ở nơi vùng nước êm.
Vậy việc đầu tiên ta phải hiểu một ít điều liên quan đến nước theo như một số thí nghiệm chuyên sâu về âm thanh trong nước.
– Đặc tính riêng của nước là hầu như không bị nén lại được,năng lượng từ một điểm này có thể truyền tới một điểm khác dưới nước dễ dàng nhận thấy là lớp sóng,một khi nó đã di chuyển thì nó sẽ lan tỏa đến gần như vô tận.
– Âm thanh là một chuyển động tác động năng lực vào nước tạo ra sóng,nó di chuyển rất nhanh trong nước,
– Âm thanh di chuyển với tốc độ khoảng 331m/giây trong không khí và 1.437m/giây trong nước,nghĩa là gần gấp 5 lần.
– Các nhà khoa học tin rằng cá voi có thể thông tin cho nhau cách khoảng hàng ngàn dặm dưới đại dương,hiện nay chúng ta chỉ có thể chuyển tải thông tin dưới nước được chừng vài trăm dặm.
– Người thợ lặn rất khó nhận biết được âm thanh truyền từ đâu đến,vì tiếng động quá dễ dàng truyền đi dưới nước,thí dụ khi ở dưới nước họ nghe tiếng động của máy tàu có vẻ như từ ở khắp mọi nơi phát ra,tiếng động của chiếc tàu ở cách xa gần nửa cây số nghe ồn như cách họ khoảng trăm thước.
Không giống như con người,cá có 2 phương tiện nhận xét tiếng động lạ để xác định vật thể,nó có 2 bộ phận xử dụng : lỗ tai như người và bộ phận 2 lằn cảm nhận dọc hai bên thân (mechanoreceptors (1),ta tạm gọi là cơ cảm nhận).
Hệ thống cơ cảm nhận chia làm 2 phần,phần đầu và phần thân,phần đầu nằm ở đầu cá,phần thân thì kéo dài dọc theo thân,hệ thống đầu là một cấu trúc phức tạp, những mạch dẫn có thể là một phân đoạn hay nhiều phân đoạn nằm chèn ở phía trong xương,hệ thống thân thì lại đơn giản hơn chỉ có một mạch dẫn duy nhất nắm sát da kéo dài từ sau mắt đến đuôi.
I – MECHANORECEPTION
Trong loài cá,cơ cảm nhận là để dễ dàng truy tìm và phản xạ của từng loại cá tùy theo kích thích của thích giác,xúc giác và áp lực,cơ cảm nhận là một phần mấu chốt của cơ quan thính giác.Cơ cảm nhận phức tạp này hoạt động như một xúc giác từ xa,nó giúp cho loài cá nhận biết rõ ràng môi trường chung quanh nó.Hai lằn chỉ bên thân cá rất nhạy,nhận biết áp lực nước thay đổi và là phản xạ đồng bộ khi bơi,tránh né kẻ thù,săn mồi,và giúp phân biệt sự náo động trong nước.Nó chạy dọc theo thân từ đầu đến gần đuôi,đa số hai lằn này mờ nhạt khó thấy trừ ở loại cá snook mà ta thấy rõ và phân biệt được.
Đây là một hệ thống đặc biệt được biết như một cơ cảm nhận gồm có nhiều cấu trúc thật li ti kết hợp. Theo nghĩa khoa học đây là những cấu trúc nhạy cảm gầm nhiều cơ cấu kết hợp hay thông thường còn gọi là cấu trúc nhỏ dây thần kinh (neuromasts),cơ cảm nhận kín đáo này nằm lồng trong mạch dẫn hiện diện trên hoặc dưới lớp bì phu cá.Nhóm dây thần kinh dù nằm trên hay dưới lớp da cá cũng là do cấu tạo bởi nhiều tế bào nhạy cảm như cilia (nhóm tiêm mao),nhóm tiêm mao bao bọc bởi một túi dịch gọi là nang cupula có kích cỡ chừng 1/10 đến 1/15 mm chiều dài.
Diện tích hệ thần kinh c ủa nang cupula ló một phần ra ngoài nước,trong khi các mạch gốc thần kinh nằm trong nang cupula bao bọc bởi các dịch thủy.Thường các mạch dẫn này nằm ở phần đầu cá bao phủ bởi rãnh xương và da,trong khi các hốc dẫn mạch thường phát triển lớp vảy đặc biệt che lại.
Sự phát triển đặc biệt của cơ cảm nhận rất tùy thuộc vào môi sinh và thực phẩm mà cá ưa thích.Loài cá sống nơi vùng nước chảy và năng hoạt động thường có nhiều gốc dây thần kinh nằm trong mạch dẫn hơn,kiểu cấu tạo này giống như đặt nó vào một chỗ tránh bị tác động thường xuyên bởi dòng nước chảy nhanh. Cũng vì vậy mà cơ cảm nhận của các loại cá thường nằm ở vị trí xa cặp kỳ ở đằng trước để tránh bớt tiếng ồn hay tiếng rung của kỳ khi quạt bơi.
Để tiếp xúc với môi sinh bên ngoài và mạch dẫn của cơ cảm nhận có một số ống nhỏ li ti nằm dọc theo thân,nơi đây những rung động của nước tác động đến các nang cupula bao bọc gốc dây thần kinh làm tiêm mao cong tới cong lui,khi những tiêm mao bị uốn về một bên tức là nó gia tăng xung động chu kỳ tần sóng,khi nó uốn trở ngược lại tức là giảm xung động chu kỳ tần sóng.Sự chuyển động của tiêm mao cảm nhận này tác động đến dây thần kinh,tạo xung động chuyển đến bộ não,nơi chứa hệ thần kinh trung ương.
Nơi não bộ cá có 3 dây thần kinh nhỏ nối liền hệ thống thần kinh chạy ở lưng, bụng và đuôi,hệ thần kinh ở lưng nằm chung quanh phía sau đầu,hệ thần kinh bụng nằm chung quanh hàm dưới sát cổ họng cá và ngực cá,trong khi hệ thần kinh phía đuôi nằm từ sau bụng đến đuôi.
Khi cá tạo ra áp lực làm dao động sóng thì nó cũng động thời bị phát giác ra bởi cá loài cá khác bằng cơ cảm nhận.Cá cũng tạo được dao động sóng hình vòng cung trước mặt nó,chính những dao động này là tần sóng cao hơn là những dao động tần sóng nằm dọc theo thân.Sự khác biệt giữa 2 tần sóng này được ghi nhớ sẵn trong cơ cảm nhận,cho nên mỗi khi cá bơi gần tới các cấu trúc dưới nước như chân cầu,san hô,cây chìm,hốc đá,dao động sóng chung quanh thân cá sẽ bị xáo trộn và tức khắc não bộ nhận tín hiệu từ cơ cảm nhận,vì vậy cá sẽ bơi tránh ra xa hay bơi tiến tới gần.
Dù rằng cơ cảm nhận giúp cá “nghe” được dao động và áp xuất sóng nước xuyên qua tần sóng rung,cơ quan đó cũng hoạt động đồng thời với các cơ quan khác nằm trong xương tai cá gọi là sỏi tai (otolith),các sỏi tai này hoạt động và cảm nhận y như sỏi tai con người,vì thế cả hai bộ phận cơ cảm nhận và sỏi tai hoạt động nhịp nhàng giúp cho cá dễ dàng nhận ra tiếng động của con mồi hay thực phẩm.
Như khi cảm được áp xuất dao động của sóng nước khi có vật lạ đến gần là cá có thể quyết định hướng nào phải vượt tránh và với tốc độ nào nó cần bơi,đó là lý do tại sao từng đoàn cá bất chợt đổi hướng cùng lượt đồng đều nhau, không những cá biết được hướng phải di chuyển mà còn biết được kích cỡ và vận tốc vật lạ rơi.Trong loài cá,việc phát triển tinh vi hệ thống thính giác là điều thiết yếu để nó sống còn.
Việc thích nghi biến đổi của cơ cảm nhận tinh vi đã xuất hiện trong loài cá mập và cá đuối được gọi là màng Lorenzini,cơ cảm nhận duy nhất trong loài cá này hoạt động như một cơ phận cảm nhận điện từ vì nó có thể dò ra được khu vực từ trường điện nhỏ bé trong nước.Những biến thái của nhóm dây thần kinh này tìm thấy trong cơ cảm nhận,nó nằm chìm trong dịch thủy của mạch,làm dễ dàng phát hiện ra dòng điện giúp cá mập và cá đuối hữu hiệu hơn khi tìm lương thực, và cá có thể tăng lên hay giảm bớt nguồn điện từ khi nó chuyển hướng,cho nên cá nhà khoa học tin rằng với giác quan cảm nhận tinh vi như thế giúp cá mập,cá đuối có thể truy tìm đường hướng và di chuyển qua các đại dương.
Thính giác bén nhạy không giới hạn ở những loại cá săn mồi mà còn hiện diện một cách quan trọng ở các loại cá mồi nữa,nó giúp tác động đến việc trốn chạy nguy hiểm,nếu bị phát giác ra bởi đối phương nó có thể lẫn trốn trong khe hốc hoặc bơi thoát ra khỏi vùng nguy hiểm.
Cá có cơ cảm nhận,không một loài thú nào có bộ phận đặc biệt này,nó phát hiện được tần sóng mạnh,thấp,ở sâu dưới nước từ 20 đến 30 feet (6m-10m),vì chiều hướng nhắm thật chính xác thật tuyệt vời,với bộ phận này cá có thể định vị trí và tấn công con mồi giả màu đen vào đêm tối không trăng sao trong làn nước thật đục.
Lỗ tai cá có xương phía trong được cấu tạo gần giống như tai người,cơ cảm nhận cũng có tính năng như thính giác dùng nhận biết các rung động.Lỗ tai cá dò ra âm thanh bằng cách ghi nhận tần sóng rung động trung bình từ 500 – 3000 Hertz cũng gần giống như lỗ tai con người (500- 4000 Hertz) dưới nước,giống như trường hợp con người lặn dưới nước mà không thể tìm được đâu ra nơi phát tiếng động của máy tàu,cho nên lỗ tai cá cũng bị vấn đề như thế.
Tuy nhiên cơ cảm nhận cá lại có thể dò ra tần sóng thấp cỡ 50 Hertz dưới nước hay thấp hơn nữa.
Âm thanh ở tần sóng thấp này thì lại ngoài tần sóng trung bình nghe được của con người.Tiếng động mà cơ cảm nhận “nghe” được là áp lực của sóng nước và với bộ phận đó nên cá nhận được tần sóng thấp của con mồi phóng ra khi bơi,sau nhiều lần thử nghiệm của các nhà khảo cứu chứng minh rõ thêm cá đã dùng bộ phận cơ cảm nhận này để săn mồi,họ để cá vào hồ nước trong phòng tối,con mồi được thả vào hồ nước đục,tụ lại ở một góc,coi như che mất tầm nhìn của cá lẫn mùi vị dò ra của khứu giác cá,vậy mà cá vẫn tìm đến đúng con mồi và tấn công. Có nghĩa là cá đã xử dụng cơ cảm nhận để truy ra vị trí con mồi,bộ phận này coi như rất chính xác.Mỗi khi người câu cá thả con mồi xuống nước tức nhiên đã tự động khuấy động bộ phận “nghe” hai bên thân cá săn mồi.
Khi cá bị thương hay suy yếu lúc bơi nó sẽ phát ra tiếng báo động lâm nguy,âm thanh này hoàn toàn khác với những sinh vật khỏe mạnh hoặc các loài thủy tộc đang bơi bình thường,cá săn mồi có thể phát hiện tín hiệu lâm nguy rồi sẽ lần mò tới gần hơn.Dĩ nhiên nó biết những con mồi bị thương là miếng mồi ngon dễ tấn công mà không mất nhiều công sức,và cá săn mồi dường như biết thật chính xác nơi nào âm thanh phát ra dù là ở xa.
II – RATTLE:
Âm thanh được coi như là một trong những cách hữu hiệu để lôi cuốn cá,có cách tạo âm thanh như gắn một cơ phận kim loại vào mồi giả như chong chóng hay các viên bi vào thân mồi khi rê,những cơ phận đó tạo nên tần sóng rung động khi rê làm cá tới gần để tấn công,cách thức này làm cho các viên bi va chạm nhau tạo ra tiếng động từ trong bụng mồi cá giả gọi là bộ lục lạc (2).Con mồi giả phải có ít nhất một viên bi nằm phía trong bụng rỗng,khi rê kéo mồi,viên bi sẽ lăn chạm các vách phía trong khoảng rỗng làm phát ra riếng động.
Một số khuyết điểm của loại mồi này là không thể kiểm soát được âm thanh theo ý muốn,không làm cho con mồi có hình dáng giống thật,không tạo sinh động y như thật của cá mồi ở dưới nước.không tạo cường độ âm thanh đủ lớn như ý.
Một số mồi giả bơi nổi trên mắt nước có cơ phận phát âm thanh hình ống kéo dài gần suốt chiều thân mồi giả,có loại dùng nhiều viên bi tạo âm thanh và làm cân bằng con mồi,cho nên khi bạn ném mồi giả hay lúc rê viên bi bằng kim loại sẽ lăn tới lăn lui theo ống rỗng tạo nên tiếng động.
Tuy rằng có khi con mồi tạo tiếng động lớn như lại không giống tiếng động của cá thật phát ra,hơn nữa,tiếng động của loại mồi nổi lại không chắc hữu hiệu thu hút cá đến gần mà còn bị giới hạn.Cho nên nhà sản xuất đã cố gắng tìm hiểu lý do tại sao tiếng động phát ra chưa khuếch đại đúng tần sóng hay chu kỳ đúng mức để lôi cuốn cá,vì thế nên có một trong những kỹ thuật khuếch đại âm thanh được sáng chế ra.
Thí dụ : Mồi giả có hai hốc rỗng phía trong,một để hốc nhỏ để tạo âm thanh bởi viên bi,một hốc rỗng khác lớn hơn gấp ba hay mười lần hốc nhỏ,viên bi chạy trong hốc nhỏ dĩ nhiên sẽ phát ra âm thanh nhỏ nhưng như hốc rỗng lớn sát bên sẽ giúp khuếch đại âm thanh từ hốc nhỏ chuyển sang.
Cũng có có tác dụng ném mồi xa hơn,nó có một ống dẫn từ đầu đến đuôi con cá giả chứa bi vừa để di chuyển viên bi khi ném mồi,viên bi sẽ di chuyển về phía đuôi khi ném và sẽ trở lại phía đằng đầu khi rê để cân bằng hay tạo tiếng rung trong con mồi.
Phần khác có một số mồi giả tạo âm thanh ở tần sóng thật thấp hoặc thật cao, chúng ta từng biết có vaì trường hợp khi điều khiển con chó,người huấn luyện dùng một loại còi thổi ra một thứ siêu âm,dựa vào tính năng đó,nhà sản xuất bên Nhật và Mỹ tạo nên vài loại con mồi giả cũng có một cấu trúc đặc biệt để khi nước chảy vào bụng hay xuyên qua các mang,sẽ tạo nên một thứ siêu âm dẫn dụ cá tới gần tấn công.
Các hãng sản xuất mồi câu như Lindy little Joe,Normark,Storm,gắn bộ phận lục lạc vào con mồi giả.Hãng Normark đã dùng bộ phận lục lạc phát tiếng động từ lâu trong loại mồi Rattlin Rapala,và Fat Rap. Âm thanh đó thu hút cá đến gần khoảng cách tấn công trực tiếp con mồi. Điều kiện nước và loại cá câu cũng góp phần quyết định nên chọn loại tiếng động nào để bắt chước cho đúng cá mồi nhử câu.Nếu bạn câu cá trong vùng nước đục mà muốn cá nghe rõ thì nên chọn mồi Rattling Rapapla hay mồi Jointed Shap raps vì nó rất ồn ào gây tiếng động lớn gây chú ý đến nhiều loại cá khác nhau dưới nước,nếu bạn câu ở vùng nước trong,êm ả,thì nên chọn mồi giả không có lục lạc mà chỉ có tính năng chao đảo.
Thường cá ở vùng nước trong là loại cá có thị giác rất tốt,cho nên nó dựa vào điều kiện bẩm sinh đó mà dùng săn mồi,phần khác ánh sáng và oxygen xuống sâu dưới đáy hơn khi nước trong,cho nên cá luôn ở dưới sâu và thường xuyên săn mồi vào lúc sáng sớm hay chiều tối kể cả ban đêm.
III – THERMOCLINE :
Thế giới ngầm dưới nước làm cho thị giác bị giới hạn,vì vậy âm thanh là mục tiêu nên đáng để ý,khoảng cách nhìn chỉ giới hạn từ vài tấc đến vài chục thước, nên âm thanh là giác quan ưu tiên.
Một khía cạnh quan trọng trong việc phát sóng âm thanh tạo ra bởi mồi giả.Ta nên hiểu rõ về tầng nước thermocline (3),nó là ranh giới phân định của tầng nước ấm phía trên và tầng nước lạnh phía dưới.Phần nhiều ánh sánh mặt trời chiếu xuống mặt nước và bị thu hút ở tầng nước phía trên,gió và sóng khuấy động phân tán nhiệt lượng cũng như trộn lẫn oxy vào nhau ở tầng nước này, nên nhiệt độ thay đổi lẹ làng,phía dưới là tầng nước thermocline,nước sẽ lạnh và ít chứa oxy hơn.
Người câu đã biết điều này trước khi sáng chế sóng siêu âm (sonar),như dân đánh cá xứ Na uy từ 500 năm trước đã từng giăng lưới,giăng dây câu ở các tầng đáy nước theo mùa,điều chỉnh dây,lưới sát theo tầng nước thermocline dù họ chưa hiểu rõ nguyên nhân.
Điều lý thú về tầng nước thermocline là nó biểu hiện ranh giới không những cho nhiệt độ và mật độ nước mà còn cho âm thanh nữa.Vào thời đệ nhị thế chiến, tiềm thủy đỉnh của các phe lâm chiến đều lợi dụng ưu điểm của tầng nước thermocline mà ẩn tránh làn sóng sonar truy tầm của đối phương.
Phần lớn khi thao tác rê mồi crankbait không chạm đáy,tiếng động phát ra của nhiều loại mồi giả sẽ bị giảm bởi sự hấp thụ các cấu trúc dưới đáy nước.Rong rêu,bùn,gốc rể cây,hay các vật thể chìm khác cũng có thể tiếp nhận nguồn năng động của bộ phận nhạc của mồi giả.Khi mồi giả được kéo rê lên mặt nước,thì nó trở nên nghe được và trở nên hấp dẫn.
Tùy thuộc theo khoảng cách của đáy và tầng nước thermocline mà ta rê mồi,nếu rê mồi sát đáy,con mồi giả có thể trở nên vô âm nhưng khi nó trồi lên khi đi ra khỏi tầng nước thermocline mới hết.
Ngược lại một khi mồi ở tầng thermocline người câu hiểu được con mồi đã rời xa đáy nên thu mồi lẹ vì đã ra khỏi tầm săn mồi ưa thích của cá.
Một khi mồi nằm dưới đáy hay sát đáy nước,bộ phận lục lạc phát ra tiếng rung có nhiều tần sóng,mà tần sóng thấp có chiều hướng thẩm thấu vào các cấu trúc mau hơn cho nên nó khó phát hiện bởi cá nằm dưới tầng nước thermocline trong khi thị giác cá hầu như không thể nhìn thấy được con mồi.
Xen vào đó,nếu biết được độ sâu của tầng thermocline ta có thể điều chỉnh cách thao tác phát tiếng động ra dưới tầng nước thermocline,cách này cho ta lợi thế tạo tiếng vang của âm thanh con mồi giữa 2 tầng nước,dĩ nhiên có nhiều cách khác để thao tác và gây tiếng động.
Một cách hữu hiệu cụ thể nhất là để thao tác con mồi trồi sụp giữa hai tầng nước phía trên và phiá dưới tầng thermocline. Điều khiển rê con mồi dưới độ sâu tùy thuộc vào trọng lượng,tốc độ rê,hình dáng,kích cỡ con mồi,với đầu cần thật nhạy người câu giỏi có thể cảm nhận dễ dàng con mồi hơi bị trì khi kéo qua tầng nước khác nhiệt độ nhau,đối với cá đây là lúc gợi cho thính giác cá đang rình và tìm săn mồi.
IV – KẾT LUẬN :
Đối với người câu cá,tất cả những gì giúp ích được việc câu được cá đều đáng giá,như bộ phận lục lạc cũng không có gì mới mẻ đối với họ,dù không phải cần kỹ thuật đặc biệt hay điệu luyện khi dùng.Gắn thêm bộ phận lục lạc vào mồi giả các loại như jigs,spinnerbaits,crankbaits,giun dẻo,v,v…là có thể câu như bình thường.Tính năng sinh động của mồi giả hay động thái của mồi giả do ta điều khiển con mồi khi rê,tác động đến bộ phận lục lạc của mồi giả.
Thật sự khi muốn bộ phận này hoạt động hữu hiệu,quan trọng là ta phải hiểu nó có hiệu ứng gì dưới nước,trong thế giới của cá,bộ phận lục lạc có thể có lợi mà cũng có khi hại.
Bộ phận lục lạc trong con mồi giả chưa chắc kích thích toàn bộ hệ thống cảm nhận tuy vậy nó cũng đã gợi sự chú ý đến bằng 2 lỗ tai cá,cho nên có 2 cách giải thích sự kiện sau : âm thanh tạo ra bởi bộ phận lục lạc có thể giống y như tiếng động con mồi sống tạo ra và làm cho cá chú ý và kích thích phản ứng của cá, tiếng động nhè nhẹ của bộ phận lục lạc cũng có thể bắt chước tiếng di chuyển của đàn cá mồi,bộ phận lục lạc trong mồi crankbaits như con mồi giả loại không có lưỡi nhựa Rat-L-Trap,nó có chức năng gây chú ý,và hoạt động như sau : khi bạn rê mồi giả dưới nước,bộ phận lục lạc sẽ tạo tiếng động ồn ào,vì cá là một sinh vật mà thiên nhiên tạo ra nên có ít nhiều sự thông minh,động lực chính là cá thu hút bởi tiếng động,cá trú ẩn trong hốc hay chỗ khuất để rình mồi nên khi thấy động tĩnh lạ nó sẽ ló ra quan sát xem có phải là mối nguy hoặc cơ hội săn mồi.
Vì thế đôi lúc cá thấy mồi và bắt đầu tấn công là nó đã bị kích thích bởi sự khiêu khích của con mồi mà chưa cần biết đến tiếng động ra sao,tuy nhiên loại mồi có lục lạc này vẫn là hàng sản xuất đứng đầu trong cá loại mồi giả.
Săn mồi ở ao hồ,sông suối hay những vùng nước khác đều là phản ứng dây chuyền của cá.Cá nghe những âm thanh của các loại cá khác đang săn mồi đều gây đến bản năng phản ứng tìm nơi săn mồi,tiếng động của đuôi quạt nước hay quẫy mặt nước đều có tác động tức thời đến cá.
Để có hiệu quả nhất, chẳng hạn một crankbait nên phát ra một tần sóng rộng bằng cách sử dụng các kích cỡ khác nhau của viên bi sắt hoặc bi thủy tinh trong bộ phận lục lạc.
Trong khi các nhà sản xuất theo nhau bước vào sản xuất bộ phận lục lạc cho mồi giả,thì người câu nên thận trọng khi sử dụng mồi crankbaits tạo tiếng rung động. Bộ phận lục lạc đôi khi quá bị lạm dụng bởi nhà sản xuất,do đó mà bạn thỉnh thoảng có thể nhận được kết quả bất lợi từ nó.
Bạn câu được cá nhiều khi dùng sai mồi ở nơi có cá nhiều hơn là dùng đúng mồi câu ở chỗ không có cá.Vì thế đầu tiên,bạn phải kiếm đúng chỗ,phải chắc là mồi chạy đúng cách,mồi phải phát ra âm thanh,âm thanh phải tạo ra bởi bộ phận lục lạc khi va chạm vào đáy nước hay chạy trên mặt nước,những âm thanh này làm cho cá nghĩ phát ra từ con mồi hoặc đặc biệt lúc con mồi bị thương.
Tất cả những tính năng này làm cho cá dễ nhận biết con mồi,khi ném con mồi vào nơi rậm rạp,con mồi giả phải sinh động,và nhất là phải phát tiếng động cho cá nghe được.Người câu phải cố gắng biết khi nào và làm sao tạo tiếng động khi xử dụng từ bộ phận lục lạc,điều tốt nhất là xử dụng con mồi có bộ phận lục lạc vào trường hợp những ngày có gió hay nước bị đục.Tốt nhất khi xử dụng bộ phận lục lạc là để khiêu khích tình trạng cá ra sao,xem phản ứng của nó,nghĩa là phải có kinh nghiệm.
Thường có 3 điều để gây chú ý cho cá đến tấn công mồi giả là : thị giác,khứu giác và thính giác.
– Về thị giác,có nhiều cách dùng như màu sắc và hình dánh y như thật,tạo sinh động mồi giả bơi tới lui để đẩy nước rẽ sóng như mồi thật,thêm chong chóng hay những cơ phận khác làm mồi giả gợi sự chú ý của cá.
– Về mùi vị, mồi có thể chứa hay bao phủ các mùi vị hấp dẫn dẫn đường cho cá đến gần.
– Về âm thanh,mồi sẽ tạo nhiều cường độ tần sóng âm thanh khác nhau để dụ cá đến gần.
– Chọn mồi đúng vào điều kiện và thời tiết để câu,có phải lúc dùng crankbaits? mồi trùn dẻo ? hay cá đang tấn công mồi spinnerbaits ?
– Ưu tiên cho cá thấy mồi trước,ném vào chỗ cá trú ẩn,nơi mà cá dễ nhận thấy dễ dàng.
– Phải có lý do khi dùng mồi giả tạo tiếng động,phải hiểu tại sao ta muốn cá nghe được tiếng động,để cá chú ý ? để giúp nó nhận biết con mồi ở đâu ? hay để bắt chước con mồi nó thích ăn ? Có thể cũng kiểu con mồi giả đó không cần có bộ phận lục lạc mà cá vẫn tấn công nhiều hơn.
– Nên xử dụng các con mồi có bộ phận lục lạc như spinnerbaits, jigs,trùn dẻo, plugs,khi cần cho cá nhận biết vị trí của con mồi vào những ngày có gió hay nước đục,đừng lạm dụng loại này khi câu vào những ngày không gió hay nước trong (có thể dùng những con mồi giả tạo ít tiếng động hơn).
– Những con mồi crankbaits có tiếng động nên xử dụng trong một số ít trường hợp câu khắc nghiệt,nó chỉ dùng đặc biệt khi câu ở vùng có thật nhiều rong rêu,lau sậy phủ che nơi nước trong.
Mồi giả có tiếng động rung không phải là một toa thuốc chữa bệnh,nó chỉ là một dụng cụ dơn giản để câu cá cũng như tất cả những dụng cụ khác,nó hữu hiệu khi dùng đúng nơi và đúng lúc.
Ghi chú:
(1) Mechanoreceptors : có thể ví như tế bào xúc giác cảm nhận được sự mất quân bình của môi trường chung quanh.Thí dụ : thuyền tròng trành,xe dằn,v,v…
(2) Rattle : việc gây ra tiếng động,tiếng rung,nên tạm gọi là lục lạc
(3) Thermocline : lớp nước lạnh,mát và chứa ít oxygen, lớp nước này di chuyển lên xuống theo mùa thường vào mùa xuân và mùa thu.
This entry was posted on Thứ Bảy, 13 Tháng Hai 2010 at 9:45 Sáng and is filed under Kỹ thuật câu cá. You can follow any responses to this entry through the RSS 2.0 feed. You can leave a response, or trackback from your own site.