Thứ nhất, đó là quan điểm: Dự án sinh lợi thì nhà đầu tư phải thương lượng với dân, theo ý kiến của ông Nguyễn Minh Nhị, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh An Giang:
Bạn đọc lấy nick là Đất của toàn dân đồng tình:
Đất của dân phải do chính người dân quyết định. Doanh nghiệp nào muốn dùng đất của dân vào mục đích của mình phải có sự thỏa thuận mua bán với dân. Cần sửa luật Đất đai để ai muốn sử dụng đất của dân vào mục đích riêng của mình thì cần phải thỏa thuận với dân, trả theo đúng giá trị đất!
Từ việc cần phải thương lượng với dân này dẫn tới sự chưa gặp nhau của giá đất mỗi bên đưa ra, từ đó dẫn tới khiếu kiện… rồi cuối cùng là cưỡng chế thu hồi đất. Trong đa số trường hợp nguyên nhân đều do người dân không chấp nhận với giá đền bù thường là quá thấp so với mức giá bán lại sau đó.
Nick Sitien_votinh nêu rõ về tỉ lệ quá chênh nhau giữa cái lợi với cái hại mà người dân phải chịu:
Theo cá nhân tôi thì mấu chốt vấn đề vẫn là nạn tham nhũng. Nếu ở những nơi đó người dân đạt được đủ 100% cái lợi mà nhà nước chuyển qua, loại bỏ được 100% cái hại của việc mất đất, thì tôi tin tưởng số vụ phải cưỡng chế sẽ giảm đáng kể. Khi cái lợi nếu chỉ được nhận 50% mà cái hại có khi phải lãnh tới 200% thì thử hỏi chính sách của cấp trên phải như thế nào thì dân mới chịu? Nếu chưa thể hạn chế được tham nhũng, thì cũng hãy gắng tính với cái mức như thế nào để dân bớt bất bình hơn.
Vu Hoang Minh phân tích sâu hơn về những điểm dễ và khó trong thu hồi đất đai với mỗi dạng khác nhau. Từ đó suy ra nếu đụng chạm quyền lợi thì cuối cùng thường dẫn tới phải cưỡng chế, mà các vụ cưỡng chế trong con mắt người dân bao giờ cũng nhiều tính tiêu cực hơn là tích cực:
Việc thu hồi đất đai của dân thường xảy ra ở 2 dạng:
+ Dạng thứ nhất thu hồi vì mục đích công trình công cộng do nhà nước làm chủ đầu tư. Ở dạng này việc đền bù được áp dụng theo khung giá nhà nước quy định, nên nhân dân chỉ có thể “cò cưa” về đền bù hoa màu, tài sản trên đất có giá trị không cao, nên dễ thỏa thuận. Việc thu hồi nhờ vậy dễ dàng và nhanh chóng hơn, do mục đích và cách làm của đơn vị thực hiện. Cũng do dự án dạng này thì những người thực hiện dựa vào mác thu hồi đất đai vì lợi ích quốc gia, nên dễ dàng áp đặt hơn về mức giá và hình thức thu hồi.
+ Dạng thứ hai thu hồi vì mục đích kinh doanh của 1 doanh nghiệp hoặc cá nhân. Ở dạng này việc đền bù đất phải dựa trên việc thỏa thuận với người dân. Nhưng các chủ đầu tư thường sử dụng hình thức hối lộ một số vị lãnh đạo địa phương, để họ đứng ra thu hồi đất của dân. Để giảm thiểu chi phí đền bù, họ sẽ áp dụng chính sách đền bù theo khung giá nhà nước. Việc này sẽ đụng chạm đến quyền lợi của người dân nên thương xảy ra việc không nhận tiền đền bù, nhưng vì giới chức địa phương đã… trót nhận lót tay, không làm không được nên chắc là phải đưa ra hình thức cưỡng chế?
Phạm Lâm nhấn mạnh khía cạnh quyền sở hữu, từ đó suy rộng sang những vấn đề liên quan khác:
Tôi xin góp ý với bà con như sau:
+ Thứ nhất: Luật Đất đai quy định “đất là sở hữu toàn dân”, thuộc Nhà nước quản lý. Nên suy xét đến tận cùng vấn đề thì có thể hiểu là chả ai sở hữu cả. Nếu hiểu theo khái niệm “sở hữu toàn dân” thì chẳng nhẽ đi lấy tổng diện tích quốc gia : tổng dân số = Diện tích đất chia cho một người dân”? Vậy nên theo tôi, cần sửa sớm Luật Đất đai.
+ Thứ hai: Nhà nước áp khung giá đất rất thiếu thực tế, đánh đồng và không sát với thị trường. Nên khi đền bù, cho dù vẫn đúng luật, nhưng không sát thực tế và giá thị trường, dẫn đến nhân dân không đồng tình và phản ứng. Cần xem xét lại việc ban hành khung và biểu giá đất. Theo tôi, nên bãi bỏ khung giá đất, mà để thị trường quyết định là đúng nhất.
+ Thứ ba: Công tác thu hồi đất, đền bù giải phóng mặt bằng lấy đi lợi ích của người này (đặc biệt là nông dân phụ thuộc vào ruộng đất) để làm lợi cho người khác. Nên theo tôi, có lẽ Nhà nước không nên can thiệp vào quá trình này, mà nên để người cần đất “thỏa thuận” với người dân theo điều kiện thị trường. Nếu làm được như thế này, tôi nghĩ, vấn đề đất đai, thu hồi đất sẽ không còn nhiều vướng mắc nữa…
Thắng cũng nêu rõ nghịch lý:
Qua đây tôi thấy, nếu không phải là công trình quốc gia thì có lẽ nhà nước không nên can thiệp vào khi mà doanh nghiệp không đền bù đúng giá trị thực tế. Vì hầu như các doanh nghiệp luôn muốn tận mua (giải phóng mặt bằng) lớn hơn nhu cầu thực tế, để rồi sau đó bán lại giá rất cao.
Về giá đất, sự chênh nhau quá mức có lẽ là lực đẩy chính khiến hai bên ngày càng xa nhau hơn.
Theo Nguyễn Hùng: Vấn đề ở đây là thu hồi 1m vuông đất trả cho nông dân 100 ngàn đồng, nhưng bán 1m vuông đất những 40 triệu đồng thì làm sao dân nghe được?
Nguyen Duc Thuyen cũng nêu con số tương tự: Thu hồi 1m2 đất của nông dân đền bù 100 ngàn. San ủi mặt bằng, đổ thêm đất vào & bán cho nhà đầu tư 40 triệu /1m2. Số chênh lệch ấy vào túi ai ??? Có ai kiểm tra được không?
Minh Hà nhấn mạnh: Tiến trình đô thị hóa ở nước ta là điều đương nhiên. Tuy nhiên việc lấy đất của dân và đền bù cho dân, giải quyết công ăn việc làm cho nông dân là rất cần thiết. Nếu lấy đất, đền bù 100.000/m2 và bán lại giá 40tr/m2 thì ai mà nghe được. Nhà nước và doanh nghiệp phải nghĩ đến dân và thương dân chứ! Các doanh nghiệp lấy đất đã giàu quá rồi, giờ lại “ăn” của nông dân nhiều như vậy nữa thì hết chịu nổi!
Trương Quốc Quân đồng tình:
… Quả thật việc người dân khiếu kiện đông người là do chính quyền các địa phương giải quyết không thỏa đáng, không tôn trọng lợi ích của dân. Như vụ Văn Giang, tôi thấy đền bù 36 triệu/1 sào 360m vuông là quá rẻ mạt. Sau đó người dân làm gì được với số tiền này đây khi giá cả leo thang?
The Binh không thể không nghi vấn: Phải chăng có sự không minh bạch trong những vụ việc này?
Thứ hai, như GS-TS Võ Tòng Xuân nhấn mạnh: Phải để người sử dụng đất có quyền cao hơn:
Le Rin liên hệ tới thực tế hiện nay để thấy rõ sự trái ngược vẫn tồn tại, mà nguyên nhân cũng bắt nguồn từ sự trình độ chưa đáp ứng được với nhu cầu thực tế của nhiều cán bộ cấp cơ sở:
Nói về vấn đề giải phóng mặt bằng cũng như công tác dân vận hiện nay, mình thấy gần như là toàn áp đặt, bắt buộc người dân phải thực hiện theo. Chúng ta thử nghĩ hiện nay giá đất của thị trường là bao nhiêu, trong khi bồi thường cho dân thường là bao nhiêu (có khi chỉ 10% so với giá thực tế người dân giao dịch). Như vậy dân có thể đồng tình hay không, hay lại phải chịu cưỡng chế. Không chấp hành thì bị cưỡng chế ư? Tại sao khi quyết định cưỡng chế, người ra quyết định không tìm hiểu xem người dân cần gì, những gì họ cần có đúng hay không, việc giải tỏa đền bù đáp ứng được gì cho họ?…
Bài toán này muốn giải được cho xong, theo tôi, ít nhất những cán bộ dân vận ở cấp cơ sở phải là những người có trình độ, có tư duy thật sự. Chứ không phải như những cán bộ hiện tại bây giờ tôi đang gặp, tôi thấy họ quá yếu kém, họ không biết được sự quan trọng trong báo cáo của họ với cấp trên. Thử hỏi cấp trên cần gì ở cấp dưới… Cấp trên muốn nắm bắt được tình hình ở địa phương để có chính sách tốt hơn cho nhân dân, thì phần lớn phụ thuộc vào báo cáo của cấp dưới…
Nói chung, tôi thấy việc giải tỏa đền bù hiện nay gần như áp đặt sẵn, ai chấp nhận thì được yên, ai không chấp nhận thì cưỡng chế. Ngoài ra cũng chẳng thấy cán bộ dân vận nói gì cho có tình, có lý để người dân cảm thấy có thể thuyết phục được mình.
Bàn rộng sang vấn đề chất lượng và tác dụng của những cán bộ làm công tác dân vận, Kien chicongvotu cũng nêu rõ bất cập phổ biến hiện nay là lợi ích đa phần vẫn nghiêng về một phía quá nhiều, trong khi phía kia lại quá ít:
Chính xác là như vậy. Chỉ khi nào làm hết lòng, hết trách nhiệm, đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người dân và của doanh nghiệp thì việc thu hồi đất, giải phóng mặt bằng mới nhận được sự đồng thuận của nhân dân. Tiếc rằng hiện nay nhiều nơi chỉ quan tâm đến lợi ích của một phía, mà phía đó lại không xuất phát từ nhân dân, không vì nhân dân.
Trần Thanh Loan nhấn mạnh thêm về vai trò của chính quyền địa phương trong việc cân nhắc lợi ích giữa các bên:
… Phải chi mấy ông chính quyền địa phương mà hiểu và chỉ cần nghĩ đến 1 chút xíu lợi ích của dân thôi, thì người dân đỡ khổ biết bao nhiêu? Cứ chỗ nào đất đai ngon lành thì mấy ông ấy lại mang dự án treo ở đó, dự án hết thời gian thì thay bằng dự án treo khác… Làm người dân quá là khổ!!
Nguyen Duy Hong nhấn mạnh cốt lõi của những việc làm không được lòng dân hiện nay của các cấp chính quyền nhiều địa phương – đó là sự không minh bạch, lạm quyền dẫn tới làm mất lòng tin của dân.
Hiện tượng cố ý làm sai, làm trái của chính quyền địa phương liên quan đến việc giải tỏa đất đai vẫn có. Đặc biệt là việc không rõ ràng, không minh bạch trong tiền đền bù cho dân hiện đang diễn ra, theo tôi, là khá phổ biến. Có những nơi chính quyền địa phương lợi dụng là bên thực thi pháp luật đã huy động cả công an, bộ đội đi “dẹp” dân để giải phóng mặt bằng. Dân chúng tôi rất bức xúc nhưng không biết kêu với ai cả. Rất mong các cơ quan quản lý cấp trên sớm vào cuộc trả lại sự công bằng cho người dân chúng tôi, tránh để lại hậu quả đáng tiếc và giúp đem lại niềm tin cho người dân vào các cơ quan quản lý.
Cũng về sự cần thiết phải công khai, minh bạch, Bình cho rằng đây là yếu tố đầu tiên người dân đòi hỏi trong cung cách làm việc của các vị cán bộ thời nay, nhất là giới chức địa phương gần với dân nhất nhưng ở không ít nơi đang bị cho là xa dân nhất :
Thứ ba là như Phó Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam Nguyễn Duy Lượng khẳng định mục tiêu và phương châm: Cần đảm bảo đời sống người dân; và như PGS-TS Bùi Thị An, đại biểu QH TP Hà Nội nêu rõ: Không thể để lợi ích vào túi doanh nghiệp, còn dân chịu thiệt.
Nick Người Văn Giang bộc bạch nỗi niềm trăn trở bấy lâu:
Tôi đã nghe những lời chia sẻ của rất nhiều bạn ở trên, tôi thật sự thấy may mắn khi các bạn đã hiểu được và nghĩ cho người dân quê tôi. Chúng tôi lớn lên trên mảng đất Văn Giang và hiểu rõ được giá trị nguồn lợi từ đất đai nơi đây mang lại. Nhờ có đất đai trồng trọt mà chị em tôi được học hành tử tế, thế hệ trẻ chúng tôi được lớn lên trong cơm lành, canh ngọt. Tuy làm ruộng vất vả nhưng mảnh đất đó đã mang lại hạnh phúc cho biết bao gia đình quê tôi, và quan trọng nhất là nó đã nuôi sống biết bao con người ở đây.Vậy mà bây giờ chính quyền bán đất cho dự án với giá rẻ mạt, không đủ chi phí cho 1 người có thể nuôi con ăn học đại học trong 1 năm nếu bán 1 sào ruộng. Vậỵ thử hỏi bán đất xong họ sẽ sống thế nào?
Nguyễn Duy Quang một lần nữa nói về thảm cảnh mất đất – mất nguồn sống của người dân:
Để phát triển kinh tế thì người dân nào cũng mong muốn. Nhưng phát triển kinh tế mà lại chỉ làm giàu cho một bộ phận nhỏ thì chắc chắn người dân không đồng ý, bởi lý do họ vẫn khổ, họ vẫn nghèo, con cháu họ sẽ ra sao khi mà không còn mảnh đất cắm dùi. Đền bù 1m2 đất có 1 triệu mà bán lại cho dân 20 đến 40 triệu thì nghịch lý quá, nhận tiền đền bù xong, mua lại đất đó không đủ 10 m2 để ở thì có được không?
Nguyễn Văn Ba chung quan điểm:
Theo tôi thấy, ngay ở vùng sâu vùng xa người ta còn có suy nghĩ: còn ruộng còn đất sống hết đời này sang đời sau.Vậy khi muốn lấy đất, nhà nước nên xem xét vấn đề đền bù sao cho thoả đáng. Vì nếu là nông dân người ta quen với nông nghiệp, ruộng đồng, thì sau khi đền bù, ruộng đất hết, người ta chẳng biết làm gì. Nghề nghiệp không có, buôn bán kinh doanh không biết… Điển hình là ở Mê Linh, Vĩnh Phúc đấy: nhiều nhà có tiền đền bù đua nhau xây nhà tầng, rồi công việc không có, ăn chơi hết tiền lại phải đóng cửa đi lang thang kiếm sống, con cháu không có nghề nghiệp lao vào các tệ nạn…
Thanh Toan khẳng định:
Dân mất đất nghĩa là mất công cụ sản xuất. Họ sẽ làm gì để sống. Hiện nay chỉ nghe lời hứa của các doanh nghiệp là sẽ tạo công ăn việc làm cho người dân địa phương, thế nhưng thực tế ra sao??? Theo tôi, Nhà nước cần bổ sung vô luật đất đai điều này thì mới đảm bảo đời sống của nông dân.
Tô Văn Vũ nhấn mạnh:
Dù nói gì thì nói, trước tiên phải giải quyết được vấn đề công ăn việc làm của người dân. Ở đây không phải là vấn đề bao nhiêu tiền tính cho 1m2 đất, mà là vấn đề cuộc sống của cả các thế hệ sau này nữa.
Tựu trung lại, trước tình cảnh của những người nông dân bị lâm vào tình cảnh mất đất hiện nay, có lẽ ai cũng hiểu được nỗi xót xa trong những lời sẻ chia bày tỏ cảm thông như của Vụ Bản: Tôi thấy thương xót cho người dân quá. Hay như nick Conggo than: Nói chung là người dân thì khổ thôi. Là “nông dân” mà, có chức gì đâu, có quyền gì đâu, nói ai nghe. Tất cả vì chữ TIỀN đó thôi.
Vậy nên đa số trường hợp phải khiếu kiện, phải chịu bị áp dụng tới hình thức cuối cùng là cưỡng chế… có thể thấy cũng chỉ là do những người dân “cực chẳng đã” mới phải dấn thân vào chặng đường khổ ải:
Bởi thế, Văn Giang một lần nữa nêu rõ:
Đúng là phải dùng đến cưỡng chế thì không thể gọi là thành công. Đặc biệt nếu là cưỡng chế một bộ phận lớn những người địa phương thì lại càng không (trên 10%). Vì nếu là giải pháp hợp lí thì người dân chẳng hơi đâu mất tiền của, thời gian để đi kiện cáo. Mà đâu chỉ có tiền bạc và thời gian, còn có cả mồ hôi và nước mắt, thậm chí còn hơn thế khi đi kiếu kiện ấy chứ…
Hai nhấn mạnh việc cần hòa về mặt lợi ích, cũng như phương châm “lạt mềm buộc chặt” trong cách làm việc với dân:
Dùng vũ lực cưỡng chế đất của người dân thì không thể gọi là tốt được. Vì vậy không nên dùng vũ lực, mà phải thuyết phục và vận động nhân dân. Thấy cái lợi chung thì dân sẽ đồng thuận. Chứ nếu chỉ lợi cho người mà mình chịu thiệt nhiều quá thì dân sẽ không thể chấp nhận. Vì vậy, cần giải quyết vì lợi ích chung. Cách làm việc cần dân chủ, công khai thì sẽ thành công.
Khánh Tùng