Mỗi hợp đồng từ khi được xác lập lập, thực hiện đến khi chấm dứt đều phải có một đối tượng cụ thể. Có thể nói đối tượng là điều kiện cốt lõi để hình thành nên hợp đồng. Do đó, nếu đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được sẽ dẫn đến hợp đồng đó bị vô hiệu. Điều 408 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về trường hợp hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được như sau:
“Điều 408. Hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được 1. Trường hợp ngay từ khi giao kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được thì hợp đồng này bị vô hiệu. 2. Trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được nhưng không thông báo cho bên kia biết nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia, trừ trường hợp bên kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được. 3. Quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này cũng được áp dụng đối với trường hợp hợp đồng có một hoặc nhiều phần đối tượng không thể thực hiện được những phần còn lại của hợp đồng vẫn có hiệu lực”.
1.Khái niệm
-Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Hợp đồng là giao dịch phổ biến nhất trong đời sống xã hội và là căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ. Hợp đồng tồn tại vô cùng đa dạng, phong phú như: hợp đồng mua bán tài sản, hợp đồng thuê tài sản, hợp đồng gia công,…Hợp đồng là sự hợp tác cùng có lợi cho các bên tham gia, bất kỳ bên nào nếu có hành vi vi phạm nghĩa vụ đã thỏa thuận thì đều phải chịu trách nhiệm dân sự về hành vi đó. -Hợp đồng vô hiệu là những hợp đồng không tuân thủ các điều kiện có hiệu lực do pháp luật quy định nêu không có giá trị pháp lý, không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.
3.Nội dung
-Ngoài các trường hợp hợp đồng vô hiệu quy định tại Điều 407 BLDS năm 2015, thì trong trường hợp đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được thì việc giao kết, hình thành hợp đồng cũng không có ý nghĩa do quyền và nghĩa vụ của các bên không thực hiện được. Hợp đồng được hình thành khi có đối tượng nhất đinh, chỉ khi có đối tượng hướng đến các bên mới bắt đầu thỏa thuận xác lập hợp đồng với nhau. Đối tượng phải thực hiện được, tức các bên không thể tác động lên đối tượng đó, nó không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên. Đối tượng của hợp đồng có thể là tài sản, công việc, thông thường, khi xác lập quan hệ hợp đồng bên có nghĩa vụ phải thực hiện công việc hoặc giao tài sản cho bên có quyền, bên có quyền có thể sẽ phải thanh toán chi phí cho bên có nghĩa vụ hoặc không. Tuy nhiên, vì một lý do nào đó mà công việc không thể thực hiện hoặc tài sản không thể chuyển giao, lúc này không có lý do gì để các bên tiếp tục thực hiện hợp đồng, nên trường hợp này hợp đồng sẽ bị vô hiệu. -Khi hợp đồng bị vô hiệu các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu, trả cho nhau những gì đã nhận. Việc này không chỉ khiến các bên không thể đạt được mục đích khi giao kết hợp đồng mà còn phải chịu thiệt hại nếu có. Do đó, để bảo vệ lợi ích các bên, tránh việc lạm dụng giao kết hợp đồng để trục lợi, pháp luật đã quy định khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được nhưng không thông báo cho bên kia biết nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia. Quy định này nhằm ràng buộc các chủ thể trong quan hệ phải tuân thủ nguyên tắc thiện chí, trung thực, không xâm phạm lợi ích của chủ thể khác khi tham gia giao kết hợp đồng. Pháp luật không quy định rõ thế nào là biết hoặc phải biết, nhưng có thể hiểu đó là khi sự kiện xảy ra khiến cho đối tượng không thể thực hiện được do ý chí chủ quan của họ, hoặc đã xảy ra mà họ đã biết nhưng vẫn im lặng, cũng có thể đó là sự kiện sắp xảy ra mà họ đã lường trước được. Ví dụ: A thỏa thuận giao kết hợp đồng mua bán tài sản với B, đối tượng là mảnh đất thuộc sở hữu của A. A biết mảnh đất đó sắp được quy hoạch nhưng đã không nói cho B biết, trường hợp này A được xem là biết về việc đối tượng không thực hiện được nhưng đã im lặng không thông báo cho B, nên phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho B. Đây chỉ là một ví dụ cụ thể trong một trường hợp nhất định, vì quan hệ hợp đồng rất đa dạng và phong phú, nên phải tùy vào từng hợp đồng trên thực tế mới có thể nhận định được hành vi của chủ thể có phải cố ý hay không. Quy định này nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của bên còn lại trong trường hợp thụ động, bị lừa dối, nhưng nếu họ cũng biết hoặc phải biết về về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được, mà vẫn giao kết hợp đồng thì trách nhiệm lức này lại thuộc về cả hai phía, nên không bên nào có trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại cho bên còn lại. -Cũng giống như các trường hợp vô hiệu khác, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được có thể vô hiệu một phần hoặc toàn bộ. Nếu toàn bộ đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được ngay từ khi giao kết thì hợp đồng bị vô hiệu toàn bộ. Những trường hợp một phần của đối tượng không thực hiện được mà không làm ảnh hưởng đến phần còn lại thì hợp đồng chỉ vô hiệu một phần, phần còn lại vẫn có hiệu lực. Bên cạnh đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại vẫn áp dụng đối với phần thiệt hại xảy ra. Quy định này nhằm hạn chế tối đa thiệt hại cho chủ thể.
Xem thêm: Tổng hợp các bài viết hỏi đáp Luật Dân sự
Luật Hoàng Anh