Giới thiệu
Synology DiskStation cung cấp nhiều cấu hình RAID khác nhau để bạn có thể lựa chọn. RAID-1 và RAID-5 là 2 loại RAID phổ biến và hầu như ai cũng biết, tuy nhiên còn có một số loại RAID khác như: RAID-0, RAID-6 và RAID-10 với những ưu điểm và nhược điểm khác nhau.
Để đơn giản, thông thường đĩa cứng cùng dung lượng được sử dụng nhiều nhất. Nhiều hệ thống RAID sẽ lấy dung lượng của ổ cứng có dung lượng thấp nhất làm chuẩn cho tất cả các đĩa cứng còn lại. Tuy nhiên, Synology thì khác, công nghệ Synology Hybrid RAID (SHR) có thế quản lý hệ thống đĩa cứng đa dung lượng.
Bài viết này sẽ hướng dẫn bạn học về các loại RAID khác nhau có trên các sản phẩm NAS Synology và ưu/nhược điểm của từng loại. Cuối cùng, bạn sẽ có thể lựa chọn loại RAID nào mà bạn quan tâm nhất thích hợp cho volume lưu trữ của bạn. Bài viết này cũng giả định rằng bạn là admin của một thiết bị Synology NAS, bạn cũng cần có kinh nghiệm và kiến thức về network administrator.
Nội dung
- Synology Hybrid RAID (SHR)
- RAID-0
- RAID-1
- RAID-5
- RAID-6
- RAID-10
1. Synology Hybrid RAID (SHR)
SHR là một hệ thống RAID tự động, được thiết kế để đáp ứng nhu cầu của người dùng cần triển khai dễ dàng một không gian lưu trữ. SHR cũng được thiết kế để đáp ứng các nhu cầu của người dùng không quan tâm hoặc không cần biết rõ các loại RAID khác nhau nào được hỗ trợ trên NAS Synology, và muốn dùng SHR để quản lý hệ thống RAID, mở rộng dung lượng lưu trữ và tối đa hóa dung lượng không gian lưu trữ hiện có. SHR cho phép khả năng dự phòng 1 hoặc 2 ổ đĩa cứng – điều đó có nghĩa rằng SHR Volume cho phép hệ thống có thể hư hỏng đến tối đa 2 ổ đĩa, trong khi dữ liệu trên volume vẫn còn và truy cập bình thường. Lưu ý rằng RAID Volume (cho dù là RAID cổ điển hay SHR) không phải là một hệ thống sao lưu.
2. RAID-0
RAID-0 kết hợp 2 hoặc nhiều ổ đĩa để gia tăng tốc độ truy suất và dung lượng lưu trữ, nhưng loại RAID này không có khả năng dư phòng. Khi một ổ đĩa bị hư sẽ gây mất dữ liệu trên toàn hệ thống đĩa. RAID-0 có thể hữu ích khi khả năng chịu lỗi và dự phòng không cần thiết và việc cân đối giữa chi phí/hiệu suất là cần thiết.
3. RAID-1
RAID-1 là loại thường được triển khai với 02 ổ đĩa. Các ổ đĩa được ánh xạ qua lại – cung cấp khả năng dự phòng. Tốc độ đọc được gia tăng trong khi tốc độ ghi là tương tự như ghi trên ổ đĩa đơn. Khi một đĩa bị hỏng, dữ liệu sẽ vẫn còn trên đĩa còn lại và bạn không mất dữ liệu. RAID-1 thường được dùng khi tiêu chí dự phòng là trên hết và không có yêu cầu đặc biệt về không gian dung lượng lưu trữ và hiệu suất.
4. RAID-5
RAID-5 cung cấp khả năng dự phòng, chịu lỗi và gia tăng hiệu suất đọc – mặc dù ngược lại phải ghánh chịu ở giảm ở hiệu suất ghi. Để làm RAID-5 bạn cần tối thiểu 3 đĩa cứng. RAID-5 có thể hoạt động khi một ổ đĩa bị hư. Trong trường hợp một đĩa bị hư, dữ liệu trên ổ đĩa hỏng này sẽ được xây dựng lại từ các parity được ghi trên các đĩa còn lại. Do vậy, khi đó tốc độ đọc và ghi bị ảnh hưởng nghiêm trọng khi một hệ thống Volume RAID-5 ở trạng thái degraded. RAID-5 là cấu hình lý tưởng khi không gian lưu trữ và chi phí quan trọng hơn hiệu suất.
5. RAID-6
RAID-6 rất giống với RAID-5 ngoại trừ việc RAID-6 cho phép hư đồng thời 02 ổ đĩa cứng. Để làm RAID-6 bạn cần ít nhất 4 ổ cứng. Hiệu suất của hệ thống RAID-6 còn thấp hơn hệ thống RAID-5 do nó bổ sung khả năng chịu lỗi và dự phòng lên đến 02 ổ đĩa. RAID-6 là cấu hình hấp dẫn khi không gian lưu trữ và chi phí, khả năng dự phòng và chịu lỗi là tiêu chí hàng đầu.
6. RAID-10
RAID-10 là cấu hình kết hợp những lợi ích của RAID-1 và RAID-0. Tốc độ đọc ghi được gia tăng, tuy nhiên chỉ có 1 nữa tổng dung lượng các ổ đĩa có thể được sử dụng để lưu trữ dữ liệu. Bạn sẽ cần ít nhất 04 ổ đĩa hoặc nhiều hơn, điều này làm cho chi phí phát sinh cao, tuy nhiên, hệ thống này cho hiệu suất tuyệt vời trong khi lại cung cấp khả năng chịu lỗi và dự phòng cực tốt. Trên thực tế, một hệ thống RAID-10 cho phép hư nhiều ổ đĩa khác nhau – tuy nhiên các ổ đĩa hư này phải không cùng nằm trong một nhóm. RAID-10 lý tưởng cho việc chạy các ứng dụng với nhu cầu về I/O cao như database servers.