Giải chi tiết:
I. Mở bài:
* Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
– Nguyễn Minh Châu là cây bút tiên phong của văn học VN thời kì đổi mới. Ông “thuộc trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học nước ta hiện nay” (Nguyên Ngọc). Nếu trước 1975, NMC là ngòi bút sử thi có thiên hướng trữ tình lãng mạn thì từ những năm 80 của thế kỉ XX ông chuyển sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh.
– Chiếc thuyền ngoài xa (1983) là một trong những sáng tác tiêu biểu của VH VN giai đoạn sau 1975. Tác phẩm ra đời khi cuộc kháng chiến chống Mĩ đã kết thúc, đất nước thống nhất trong nền độc lập, hòa bình. Cuộc sống với muôn mặt đời thường đã trở lại sau chiến tranh, nhiều vấn đề của đời sống, nhiều quan niệm đạo đức cần được nhìn nhận lại… Tác phẩm mang xu hướng nghệ thuật chung của văn học thời kì đổi mới: thiên về hướng nội, khai thác sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con người đời thường…
* Khái quát vấn đề nghị luận: Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài qua đoạn trích trên. Từ đó nhận xét ngắn gọn về quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu.
II. Thân bài:
1. Tóm tắt + giới thiệu tình huống dẫn đến đoạn trích.
– Theo yêu cầu của trưởng phòng, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đến một vùng ven biển miền Trung (cũng là nơi anh từng chiến đấu) để chụp một tấm ảnh cho bộ ảnh lịch nghệ thuật thuyền và biển. Sau nhiều ngày phục kích, người nghệ sĩ đã phát hiện và chụp được “một cảnh đắt trời cho”- cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm mờ sương. Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, anh đã kinh ngạc hết mức khi chứng kiến từ chính chiếc thuyền đó cảnh một gã chồng vũ phu đánh đập người vợ hết sức dã man, đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã đánh trả lại cha mình. Những ngày sau, cảnh tượng đó lại tiếp diễn và lần này người nghệ sĩ đã ra tay can thiệp…
– Theo lời mời của chánh án Đẩu (một người đồng đội cũ của Phùng), người đàn bà hàng chài đã đến toà án huyện. Tại đây, người phụ nữ ấy đã từ chối sự giúp đỡ của Phùng và Đẩu, nhất quyết không bỏ người chồng vũ phu. Chị đã kể lại câu chuyện về cuộc đời mình để giải thích cho sự từ chối trên
2. Cảm nhận về nhân vật người đàn bà hàng chài.
a. Số phận khổ đau bất hạnh:
* Cuộc sống nghèo khổ, lam lũ:
– Người đàn bà hàng chài vốn xuất thân trong một gia đình khá giả “nhà tôi trước ở trong cái phố này” (buôn bán những vật dụng phục vụ nghề chài lưới), nhưng ông Trời lại không ưu ái với chị về nhan sắc. Từ nhỏ chị “đã là một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt sau một bận lên đậu mùa”.
– “Cũng vì xấu, trong phố không ai lấy”, nên chị có mang với anh con trai một nhà hàng chài giữa phá hay đến nhà chị mua bả về đan lưới. Thế là thành vợ chồng. Chị chuyển từ “trên phố” xuống ở luôn dưới thuyền, trở thành người đàn bà hàng chài.
– Cuộc sống mưu sinh trên biển vô cùng cực nhọc, vất vả, lam lũ với những đêm thức trắng kéo lưới, thế mà vẫn bấp bênh, đói nghèo… Có những khi “ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối”
-> Nguyên nhân của sự nghèo khổ đến túng quẫn được chị lí giải đó là “nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính, nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật”
* Nạn nhân của nạn bạo hành gia đình:
– Bị hành hạ về thể xác: Cuộc sống đói nghèo tăm tối kéo dài trên mặt biển đã gây ra tâm lí bế tắc u uất. đã khiến người chồng trở nên vũ phu, đánh đập vợ một cách tàn nhẫn “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. “Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu… Giá mà lão uống rượu… thì tôi còn đỡ khổ…”. Những trận đòn mà chị phải chịu đựng không có quy luật nào hết, là “bất kể lúc nào”. Gã chồng đánh chị như một phương cách để giải tỏa những bế tắc cuộc sống, để “trút cơn giận như lửa cháy”.
-> Những trận đánh ấy đã, đang và sẽ diễn ra triền miên, không có hồi kết- hoặc nếu có thì sẽ hết sức thê thảm như trong ý nghĩ của chị “cái lão đàn ông đã từng hành hạ mụ, và không khéo sẽ còn hành hạ mụ cho đến khi chết”.
– Bị giày vò về tinh thần: Người đàn bà hàng chài không chỉ bị hành hạ về thể xác với những trận đòn tàn bạo của người chồng vũ phu mà còn bị giày vò nặng nề về tinh thần bởi sự nhục nhã khi bị đối xử như một con vật; bởi luôn nơm nớp lo sợ con cái bị tổn thương; bởi sự đau khổ khi luôn phải chứng kiến đứa con trai vì quá thương mẹ mà căm ghét tấn công lại bố, phạm phải một tội ác trái với luân thường đạo lí. Chị đã phải dứt ruột gửi thằng con mà chị yêu nhất lên rừng nhờ ông ngoại nuôi đã nửa năm nay “vì sợ thằng bé có thể làm điều gì dại dột với bố nó”, nhưng vẫn không tránh khỏi nỗi lo lắng bởi “hễ rời ra là nó trốn về. Thằng bé tuyên bố với các bác ở xưởng đóng thuyền rằng nó còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh”. Chính vì vậy mà khi nhắc đến thằng Phác, “người đàn bà đã khóc”. Khóc vì thương con, khóc vì thấy có lỗi với con, khóc vì bế tắc.
b. Vẻ đẹp tâm hồn.
* Sự sâu sắc thấu hiểu lẽ đời.
Giãi bày với chánh án tòa án Đẩu và nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng về câu chuyện gia đình và về những giải pháp xã hội, người đàn bà làng chài quê mùa thất học có “con mắt như đang nhìn suốt cuộc đời mình”, có “sự thâm trầm trong việc hiểu thấu các lẽ đời”, đã khiến các anh trở nên nông nổi, ngây thơ.
* Về những giải pháp xã hội:
– Chính sách của Nhà nước nhiều khi cũng trở nên bất cập với thực tế cuộc sống của họ: “Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có làm được cái nghề thuyền lưới vó? Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!”. Chị đã giúp Đẩu và Phùng nhận ra tình trạng luẩn quẩn bế tắc trong cuộc sống của một ngư dân trên biển: Ở thuyền thì chật chội, bức bối nhưng lên bờ thì lại phải bỏ nghề mà cuộc sống của họ lại phụ thuộc và gắn chặt với nghề chài lưới.
– Từ đó trong ý nghĩ của chị đã thấp thoáng xuất hiện một giải pháp khác. Giải pháp đó đã được kín đáo gợi đến, nhân khi nghĩ về thằng Phác “giống như lột ra từ cái lão đàn ông đã từng hành hạ mụ, và không khéo sẽ còn hành hạ mụ cho đến khi chết – nếu cách mạng không về”. Chữ “cách mạng” ở đây không phải để chỉ cuộc cách mạng đã qua, mà ám chỉ một cuộc cách mạng khác, cuộc cách mạng sẽ phải đến để đẩy lùi giặc đói và giặc dốt, là căn nguyên của những nỗi thống khổ của những gia đình hàng chài, của những người lao động như chị.
* Tấm lòng nhân hậu, bao dung (thể hiện trong mối quan hệ với gã chồng vũ phu).
– Chị thấu hiểu và thông cảm cho nỗi khổ sở u uất của chồng mình, trong mắt chị thì sự độc dữ của gã cũng là do hoàn cảnh sống khắc nghiệt xô đẩy. Vốn là “anh con trai cục tính nhưng hiền lành… không bao giờ đánh đập vợ”; nhưng vì cuộc sống đói nghèo, vất vả, cùng quẫn với bao nhiêu lo toan, cực nhọc nên đã biến thành một người chồng vũ phu, một người đàn ông độc ác. Lão đánh vợ không phải vì thù ghét gì người vợ khốn khổ, mà đánh vợ như người khác uống rượu cho quên nguôi nỗi cơ cực của mình. Với chị, người đàn ông này vừa là tội nhân gây nên bao đau khổ cho chị, cho những đứa con do thói vũ phu và tính ích kỉ; nhưng cũng vừa là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ, lão vừa đáng lên án vừa đáng cảm thông.
– Vì thấu hiểu và cảm thông nên chị chấp nhận nhẫn nhục cam chịu những trận đánh tàn bạo để gã chồng được giải tỏa phần nào những bế tắc trong cuộc sống túng quẫn. Cùng một lúc, người đàn bà hàng chài không chỉ chịu đựng những vất vả, nhọc nhằn của cuộc sống mưu sinh mà còn phải gánh vác thêm những u uất, khổ sở của người chồng khi lão không còn đủ sức để chịu đựng một mình. Chị chấp nhận việc chồng đánh cũng như những người đàn bà hàng chài khác chấp nhận chồng mình uống rượu.
– Thậm chí, chị còn nhận lỗi về phía mình với tấm lòng vị tha vô bờ bến “giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn… lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật”.
c. Đánh giá nghệ thuật xây dựng nhân vật:
– Tác giả đã tạo ra tình huống truyện độc đáo- tình huống nhận thức đầy nghịch lí- mang ý nghĩa khám phá và phát hiện về đời sống. Từ đó mà nhân vật hiện ra gây ấn tượng đậm nét cho người đọc.
– Nhà văn đã xây dựng nhân vật bằng những nét khắc họa ấn tượng về hành động, cử chỉ, ngôn ngữ, dáng vẻ, nét mặt… (không chú ý miêu tả diễn biến tâm trạng, đời sống nội tâm) tạo thành một điển hình đầy ám ảnh.
3. Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu.
– Thế nào là cái đẹp? -> Cái đẹp không chỉ là những thứ hoàn hảo, toàn bích mà còn là những thứ khuất lấp, ẩn tàng, náu mình trong những cái tưởng như tầm thường, nhếch nhác
– Nghệ thuật tìm kiếm vẻ đẹp gì? -> Vượt qua cái vẻ đẹp bề ngoài để tìm kiếm vẻ đẹp đích thực ẩn giấu bên trong
– Người nghệ sĩ, anh là ai? -> Là người say mê nghệ thuật, biết xúc động trước cái đẹp, không chỉ thế còn là người nhân đạo từ trong cốt tuỷ, biết xúc động trước cuộc đời, đi vào cuộc đời, gắn chặt mình với hơi thở của cuộc đời → Có như vậy mới nhận ra được vẻ đẹp ẩn tàng, khuất lấp trong cuộc đời.
– Nhân vật cũng góp phần mang đến bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thực sự sau bề ngoài của hiện tượng.
– Nhân vật cũng mang đến nhận thức mới về nghệ thuật đích thực: nghệ thuật chân chính không bao giờ rời xa cuộc đời; nghệ thuật chính là cuộc đời và phải luôn luôn vì cuộc đời.
– Nhân vật cũng đánh dấu sự thay đổi trong quá trình khám phá về con người của văn học Việt Nam thời kì đổi mới (từ con người lí tưởng đại diện cho cộng đồng “tắm trong bầu không khí vô trùng” trong bút pháp sử thi và cảm hứng lãng mạn sang con người đời thường trong cảm hứng thế sự đời tư).
III. Kết bài.