Số liệu thống kê cho thấy có khoảng 15 triệu trẻ sơ sinh trên toàn thế giới bị sinh non mỗi năm. Tại Hoa Kỳ, cứ 10 trẻ thì có một trẻ sinh non, dẫn đến nguy cơ mắc các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng. Còn ở Việt Nam, số trẻ sinh non trong những năm gần đây có dấu hiệu gia tăng, chạm tỷ lệ 7% – tương ứng mỗi năm cả nước có hơn 100.000 trẻ sinh non do nhiều lý do.
Mặc dù nguyên nhân chính xác của sinh non vẫn chưa được biết rõ. Nhưng cần ở một số khu vực tiêu thụ nhiều cá, thời gian mang thai dường như kéo dài hơn. Điều này đã thúc đẩy các nhà nghiên cứu tìm hiểu bà bầu có nên ăn cá để giảm sinh non.
Cụ thể, một nghiên cứu đã theo dõi hơn 100.000 ca mang thai, phân loại những phụ nữ mang thai đơn lần đầu, loại trừ những người có tình trạng sức khỏe kém hoặc đã từng mang thai có thể làm tăng nguy cơ sinh non. Tất cả đều được lấy mẫu máu để đo lượng axit béo chuỗi dài (EPA và DHA) trong tam cá nguyệt đầu tiên và 3 tháng cuối của thai kỳ.
EPA và DHA chủ yếu được tìm thấy trong cá và các loại hải sản khác, đặc biệt là cá vùng biển lạnh – như cá hồi, cá thu, cá ngừ, cá trích và cá mòi. Các axit béo này cũng được tìm thấy trong các loại hạt, dầu thực vật và thực phẩm bổ sung, chẳng hạn như nước cam và một số sản phẩm sữa tăng cường.
Dựa trên lượng axit béo này, những thai phụ được xếp vào 5 nhóm, từ mức tiêu thụ thấp nhất đến mức cao nhất. Kết thúc nghiên cứu, có 376 phụ nữ sinh trước 34 tuần tuổi thai và 348 phụ nữ không sinh sớm. Nhóm có mức tiêu thụ thấp nhất có nguy cơ sinh sớm cao gấp 10 lần so với những phụ nữ tiêu thụ axit béo omega-3 cao hơn. Kết quả cũng cho thấy những phụ nữ ở nhóm tiêu thụ thấp thứ hai có nguy cơ sinh non cao hơn 2,7 lần so với những nhóm trên.