Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Chè dây.
Tên khác: Bạch liễm; Trà dây; Thau rả; Khau rả; Hồng huyết long; Điền bổ trà; Ngưu khiên tỵ; Chè hoàng gia; song nho Quảng Đông.
Tên khoa học: Ampelopsis cantoniensis (Hook. et Arn.) Planch – một loài thực vật thuộc họ Nho (Vitaceae ).
Đặc điểm tự nhiên
Chè dây là một loại dây leo có thân và cành hình trụ, trên thân có các lông nhỏ, cứng.
Lá kép lông chim, hình xoan, dài khoảng 2,5 đến 7,5cm, đầu nhọn, gốc tròn, nhẵn. Mép lá có răng cưa, mặt lá nhẵn, mặt trên lúc khô có vết như nấm mốc, mặt bên dưới nhạt. Lá mọc so le, có 7 – 13 lá chét, lá kèm khô.
Hoa cây Chè dây có màu trắng. Đài hoa hình chén, có lông, tràng hoa có 5 cánh. Nhị hoa 5, có chỉ nhị mảnh. Hai noãn hoa trong một ô, mỗi bầu hoa có 2 ô, bầu hoa hình nón. Hoa mọc đối diện lá thành cụm (ngù) 3 – 6cm, có nhiều nhánh.
Cụm hoa mọc đối diện với lá thành ngù phân nhiều nhánh, rộng 3 – 6cm; hoa nhiều màu trắng; dài hình chén có lông mịn, 5 răng ngắn, tràng có 5 cánh; nhị 5, chỉ nhị mảnh; bầu hình nón có 2 ô, mỗi ô 2 noãn.
Quả cây Chè dây là quả mọng, lúc chín chuyển thành màu đen.
Phân bố, thu hái, chế biến
Chè dây phân bố ở nhiều nơi như Ấn Độ, Trung Quốc, Lào, Inđônêxia và Việt Nam. Ở Việt Nam, cây Chè dây mọc dại theo bụi ở nơi: Lào Cai, Hoà Bình, Hà Tây, Bắc Thái, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Nghệ An, Lâm Đồng, Đồng Nai. Cây được thu hoạch quanh năm.
Cây Chè dây rất khó phân biệt với cây Dây chè (Vernonia andersonii C.B.Clarke) thuộc họ Cúc. Tuy nhiên, dây chè có thân và rễ độc.
Bộ phận sử dụng
Bộ phận sử dụng của Dây chè là phần thân và lá trên mặt đất. Thu hoạch cây vào lúc chưa ra hoa. Sau khi thu hoạch cây được thái nhỏ và phơi khô dưới ánh nắng.