Theo y học cổ truyền
Tính vị: Măng cụt vị chát. Theo Đông y thì vỏ quả măng cụt có tác dụng làm săn da, trừ lỵ, cầm tiêu chảy. Chủ trị tiêu chảy, kiết lỵ, khí hư, bạch đới.
Vỏ thân cây có tác dụng chữa tiêu chảy.
Tại nhiều nước Malaixia, Campuchia, Philipin, người ta dùng nước sắc vỏ măng cụt để làm thuốc chữa đau bụng đi ỉa lỏng, chữa lỵ, có khi còn dùng chữa bệnh hoàng đản (vàng da).
Theo y học hiện đại
Trong vỏ quả chứa nhiều hoạt chất xanthones. Chất này thể hiện đặc tính kháng khuẩn, tiêu viêm rõ rệt. Súc miệng bằng nước sắc vỏ măng cụt sau khi ăn có tác dụng giảm mùi thức ăn, chống lại sự phát triển của vi khuẩn trong khoang miệng, ngăn ngừa hôi miệng và mang lại hơi thở thơm tho hơn.
Theo các nghiên cứu tại Mỹ đã chứng minh trong vỏ quả măng cụt có chứa các chất chống lão hóa mạnh mẽ có thể có tác dụng hơn cả vitamin C, E. Do đó người ta hay dùng vỏ măng cụt ở dạng phơi khô hay chiết xuất để chăm sóc da, đắp mặt nạ nhằm chống lão hóa da.
Chất Xanthones có trong vỏ quả giúp cơ thể phòng ngừa cholesterol xấu, hỗ trợ trong việc điều trị béo phì. Người ta dùng vỏ măng cụt để làm trà giúp làm da săn chắc da và có thể ổn định cân nặng.
Chất Xanthones còn giúp thúc đẩy quá trình chuyển hóa thức ăn thành dạng năng lượng cung cấp cho cơ thể hoạt động. Vỏ quả măng cụt ở dạng chiết xuất có tác dụng ức chế sự phát triển vi khuẩn gây ra các bệnh lý ở đường ruột,.
Trong vỏ quả măng cụt có chứa chất Garcinone E được chứng minh có khả năng ức chế sự phát triển của các tế bào ung thư ở dạ dày, phổi và gan. Ngoài ra, hợp chất xanthone có thể giúp tiêu diệt các tế bào ác tính và làm giảm các tác hại từ các gốc tự do