Tứ thư ngũ kinh là 9 tác phẩm kinh điển của văn hóa Trung Quốc, là nền tảng của tư tưởng Nho học Trung Quốc. Cùng TIẾNG TRUNG NGUYÊN KHÔI tìm hiểu về 9 tác phẩm kinh điển Tứ Thư Ngũ Kinh nhé!
I. TỨ THƯ
1. Tứ Thư là gì?
Tứ Thư (四書 – sì shū) là bốn tác phẩm kinh điển của Nho học Trung Quốc bao gồm:
– Đại Học (大学 – dà xué)
– Trung Dung (中庸 – zhōng yóng)
– Luận Ngữ ( 论语 -lùn yǔ)
– Mạnh Tử (孟子 Mèng Zǐ)
Bộ sách Tứ Thư của Nho giáo ra đời cách nay khoảng hơn 2.000 năm, đã trải qua bao sóng gió theo những giai đoạn thăng trầm của lịch sử Trung Hoa. Lần thì bị Tần Thủy Hoàng đốt, lần thì bị tiêu tan trong các cuộc nội chiến triền miên của Trung Hoa. Do vậy khó tránh được nạn “tam sao thất bản”. Đến đời nhà Tống, bộ sách này mới được các danh Nho tu chỉnh.
Đầu tiên được hai anh em họ Trình là Trình Hạo (1032-1085) và Trình Di (1033-1107) hiệu là Y Xuyên, nghiên cứu, soạn tập và chú giải Tứ Thư và Ngũ Kinh. Sau đó Chu Hy (1130-1200) hiệu là Hối Am, bổ cứu và sắp đặt thành chương cú cho có thứ tự phân minh.
Ngày nay, có những bản sách Tứ Thư (và Ngũ Kinh) là do công lao của hai anh em Trình Hạo, Trình Di và của Chu Hy thời nhà Tống.
2. Nội dung chính của Tứ Thư
Tứ Thư đề cập đến nhiều lĩnh vực như: Triết học, chính trị, đạo đức, luật pháp…
Một trong những nội dung chủ đạo của Tứ Thư là việc tập trung xây dựng nhân cách con người xã hội với những vấn đề căn cốt như: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Những chuẩn mực mà Tứ Thư đề ra cho cá nhân, đặc biệt ở khía cạnh đạo đức đến nay vẫn còn mang tính thời sự và trình tự hệ thống: Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ xem ra ngày càng chứng tỏ sự ưu việt.
Ở Tứ Thư, giá trị cá nhân chỉ được đề cao khi mà nó gắn bó mật thiết với toàn bộ trật tự chung, nói cách khác khi nó hoàn thành triệt để nghĩa vụ, bổn phận của mình với toàn bộ xã hội xung quanh.
Vì thế có thể khẳng định, cái đích hướng tới cuối cùng của Tứ Thư chính là sự phát triển trong bình ổn với một quy định nghiêm ngặt về đạo đức cho tất cả các tầng lớp xã hội. Chính giá trị quan trọng này sẽ giải thích hiện tượng qua hàng nghìn năm, ảnh hưởng của Tứ Thư không chỉ dừng ở phương Đông mà ngày càng lan truyền, phổ cập trên diện rộng thế giới.
Trong thời đại ngày nay, khi xu hướng toàn cầu hóa đang tràn lan và sự tồn tại của một quốc gia, một dân tộc phụ thuộc rất nhiều vào nội lực văn hóa truyền thống thì việc tìm hiểu, khám phá lại Tứ Thư là một nhu cầu quan trọng, cấp thiết không chỉ ở tầm quốc gia mà ở ngay bản thân mỗi cá nhân người Việt Nam. Lý do đơn giản là một phần không nhỏ văn hóa của chúng ta phát triển trên cơ sở tiếp thu uyển chuyển, linh hoạt, có chọn lọc những tinh hoa tư tưởng Khổng Mạnh, mà trong đó Tứ Thư là cốt lõi. Qua Tứ Thư, chúng ta sẽ hiểu thấu đáo hơn nền tảng văn hóa truyền thống của dân tộc mình để rồi từ đó có những định hướng cho chặng đường phát triển tiếp theo.
Xem thêm: Nội dung bộ Tứ Thư – Tác phẩm kinh điển Trung Quốc
II. NGŨ KINH
1. Ngũ Kinh là gì?
Ngũ Kinh (Phồn thể: 五經; Giản thể:五经) là năm quyển kinh điển trong văn học Trung Hoa dùng làm nền tảng trong Nho giáo. Theo truyền thuyết, năm quyển này đều được Khổng Tử soạn thảo hay hiệu đính bao gồm:
– Kinh Thi (Phồn thể: 詩經; Giản thể: 诗经)
– Kinh Thư (Phồn thể: 書經; Giản thể: 尚书)
– Kinh Lễ (Phồn thể: 禮記; Giản thể: 礼记)
– Kinh Dịch (Phồn thể: 易經; Giản thể: 易经)
– Kinh Xuân Thu (春秋 – Chūn Qiū)
Ngoài ra còn có Kinh Nhạc do Khổng Tử hiệu đính nhưng về sau bị Tần Thủy Hoàng đốt mất, chỉ còn lại một ít làm thành một thiên trong Kinh Lễ gọi là Nhạc ký. Như vậy Lục kinh chỉ còn có Ngũ kinh.
2. Nội dung chính của Ngũ Kinh
Kinh Thi sưu tập các bài thơ dân gian có từ trước Khổng Tử, nói nhiều về tình yêu nam nữ. Khổng Tử san định thành 300 thiên nhằm giáo dục mọi người tình cảm trong sáng lành mạnh và cách thức diễn đạt rõ ràng và trong sáng. Một lần, Khổng Tử hỏi con trai “học Kinh Thi chưa?”, người con trả lời “chưa”. Khổng Tử nói “Không học Kinh Thi thì không biết nói năng ra sao” (sách Luận ngữ).
Kinh Thư chuyên ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có trước Khổng Tử. Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo gương các minh quân như Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Tụ.
Kinh Lễ ghi chép các lễ nghi thời trước. Khổng Tử hiệu đính lại mong dùng làm phương tiện để duy trì và ổn định trật tự. Khổng Tử nói: “Không học Kinh Lễ thì không biết đi đứng ở đời” (sách Luận Ngữ).
Kinh Dịch nói về các tư tưởng triết học của người Trung Hoa cổ đại dựa trên các khái niệm âm dương, bát quái,… Đời Chu, Chu Văn Vương đặt tên và giải thích các quẻ của bát quái gọi là Thoán từ. Chu Công Đán giải thích chi tiết nghĩa của từng hào trong mỗi quẻ gọi là Hào từ. Kinh Dịch thời Chu gọi là Chu Dịch. Khổng Tử giảng giải rộng thêm Thoán từ và Hào từ cho dễ hiểu hơn và gọi là Thoán truyện và Hào truyện.
Kinh Xuân Thu ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của Khổng Tử. Khổng Tử không chỉ ghi chép như một sử gia mà theo đuổi mục đích trị nước nên ông chọn lọc các sự kiện, ghi kèm các lời bình, sáng tác thêm lời thoại để giáo dục các bậc vua chúa. Ông nói: “Thiên hạ biết đến ta bởi kinh Xuân Thu, thiên hạ trách ta cũng sẽ ở kinh Xuân Thu này”. Đây là cuốn kinh Khổng Tử tâm đắc nhất, xuân thu có nghĩa là mùa xuân và mùa thu, ý nói những sự việc xảy ra.
Xem thêm: Ngũ Kinh – Tác phẩm kinh điển của văn học Trung Quốc
Trên đây là toàn bộ thông tin về Tứ Thư Ngũ Kinh, TIẾNG TRUNG NGUYÊN KHÔI hy vọng sẽ giúp các bạn hiểu hơn về văn hóa Trung Quốc cũng như giúp cho quá trình tự học tiếng Trung của các bạn vui vẻ và hứng thú hơn.