Ung thư dạ dày xuất phát từ sự phát triển bất thường của các tế bào ở dạ dày một cách không kiểm soát, tạo nên khối u ác tính. Khối u dạ dày không những phát triển tại chỗ mà còn có khả năng xâm lấn đến các cơ quan lân cận, ở giai đoạn muộn hơn ung thư dạ dày có thể di căn đến các hạch bạch huyết vùng hay di căn xa đến các cơ quan khác trong khắp cơ thể.
Bệnh ung thư dạ dày thường gặp ở người trên 50 tuổi, tuy nhiên bệnh đang có xu hướng trẻ hóa và có thể gặp ở những bệnh nhân trẻ tuổi. Nam giới mắc ung thư dạ dày có số lượng gấp đôi bệnh nhân nữ giới.
Ung thư dạ dày có thể liên quan đến nhiễm vi khuẩn Helicobacter pylori (HP) ở dạ dày trước đó. Vi khuẩn HP có thể phá hủy niêm mạc dạ dày gây nên tình trạng viêm loét dạ dày, và có thể phát triển thành tổn thương tiền ung thư về sau. Tổn thương tiền ung thư tại dạ dày có thể liên quan đến:
- Sự biến đổi cấu trúc của tế bào niêm mạc dạ dày và sự nhân lên không kiểm soát (loạn sản).
- Viêm teo niêm mạc dạ dày.
- Sự biến đổi hình thái của tế bào niêm mạc dạ dày giống như các tế bào ở ruột (chuyển sản ruột).
- Di truyền: Người có tiền sử gia đình mắc ung thư dạ dày thì nguy cơ ung thư dạ dày cao hơn người bình thường
- Phẫu thuật dạ dày: Những người có tiền sử phẫu thuật liên quan dạ dày cũng là một yếu tố nguy cơ của ung thư dạ dày.
Ung thư dạ dày ở giai đoạn sớm thường không có dấu hiệu hoặc biểu hiện triệu chứng rất mơ hồ, dễ bị bỏ sót hoặc nhầm lẫn với các bệnh lý khác. Theo Chương trình SEER của Viện Ung thư quốc gia Hoa Kỳ, ở giai đoạn 2009 – 2015, trong số những bệnh nhân ung thư dạ dày có 36% bệnh nhân ở giai đoạn di căn tại thời điểm chẩn đoán. Ở Việt Nam, con số này còn lớn hơn do bệnh nhân thường đến bệnh viện muộn.