Cường giáp mà đặc biệt là bị basedow nên đẻ thường hay đẻ mổ là một vấn đề mà nhiều chị em khi mắc phải căn bệnh này luôn băn khoăn, trăn trở.
Đối với sản phụ đang điều trị cường giáp mà mang thai hoặc phát hiện cường giáp trong thai kỳ, bác sĩ điều trị cường giáp sẽ xem xét nghiệm máu của sản phụ mà tư vấn cách sinh con phù hợp nhất. Nếu thấy kết quả xét nghiệm hormone tuyến giáp bình thường thì có thể cho ngừng thuốc tạm thời nhưng vẫn tiếp tục theo dõi, xét nghiệm hormon tuyến giáp hàng tháng vì cường giáp hay bị tái phát trở lại nặng lúc sinh dễ dẫn đến bị bão giáp cấp. Nếu thấy cường giáp nặng thì cần phải can thiệp điều trị thuốc kháng giáp trạng tổng hợp (nên lựa chọn thuốc ưu tiên ít qua rau thai là PTU) và theo dõi chặt chẽ (xét nghiệm TSH, hormon môn tuyến giáp hàng tháng) tránh gây suy giáp cho người mẹ và đứa trẻ.
Thai phụ bị bướu basedow có sinh thường được không còn tùy vào tình trạng cụ thể của từng bà mẹ và sức khỏe của thai nhi trong bụng mẹ. Phần lớn trường hợp basedow có thể mới xảy ra trong 3 tháng đầu của thai kỳ hoặc ở phụ nữ đã bị Basedow trước đó. Ngoài các triệu chứng kinh điển, người mẹ còn có thể bị đẻ non (sảy thai hoặc buộc mổ bắt con sớm) hoặc tiền sản giật. Mẹ sẽ có nguy cơ cao bị suy tim, nhiễm độc giáp cấp, vì vậy việc tiên lượng sinh mổ (thậm chí khi thai chưa đủ tháng) cho mẹ bị Basedow khá cao nhằm mục đích “cố gắng” bảo toàn tính mạng cho cả mẹ và con.
Tuy nhiên, bệnh Basedow có thể được cải thiện vào 3 tháng cuối thai kỳ hoặc cũng có thể nặng hơn ở thời kỳ hậu sản. Thông thường phụ nữ bị Basedow sau khi sinh bệnh sẽ nặng lên (thường ở 3 tháng đầu tiên sau sinh), do đó cần tăng liều thuốc kháng giáp trạng trong thời điểm này, đồng thời cần kiểm soát chặt chức năng tuyến giáp. Đứa trẻ có thể bú sữa mẹ nếu bà mẹ được điều trị bằng PTU vì PTU gắn với protein máu cao và ít qua sữa mẹ hơn các thuốc khác.