Công ty May mặc Doko (Nhật Bản) đã trải qua hai con đường tố tụng là trọng tài và tòa án, song không nhận được kết quả như ý muốn. Một trong những nguyên nhân khiến doanh nghiệp ngoại này gặp khó là bởi hợp đồng hợp tác có sự sai lệch về ngôn ngữ thể hiện.
Năm 2008, Doko hợp tác với Công ty TNHH May mặc xuất khẩu VIT Garment và Công ty Idochu để thành lập Công ty TNHH Uno Corporation.
Các bên thỏa thuận, vì Công ty VIT có lợi thế hơn 36.000m2 đất ở Khu công nghiệp Quang Minh (huyện Mê Linh, TP. Hà Nội) nên góp vốn bằng đất. Hai đối tác Nhật Bản sẽ góp vốn bằng tiền mặt.
Rắc rối phát sinh vì sau một thời gian ngắn hoạt động, tình hình tài chính của Công ty Uno cạn kiệt. Các đối tác yêu cầu Công ty VIT chuyển giao quyền thuê đất để Công ty Uno được ký kết thuê đất với Nhà nước.
Từ đó, Công ty có tài sản thế chấp vay vốn ngân hàng để có nguồn vốn tiếp tục hoạt động. Công ty VIT đưa ra nhiều lý do không đồng ý như việc quản lý lỏng lẻo, không được tiếp cận hồ sơ, hợp đồng bản tiếng Việt không thể hiện góp đất, chỉ thể hiện “… VIT góp 1,08 triệu USD (40% vốn) bằng tài sản gồm công trình xây dựng; một phần nhà xưởng số 3 diện tích 4.320 m2; một phần nhà xưởng số 4 diện tích 1.440 m2”.
Trong khi đó, Công ty Doko và Công ty Uno xuất trình bản tiếng Anh thể hiện “VIT góp 1,08 triệu USD (40% vốn) bằng tài sản gồm công trình xây dựng, đất của nhà xưởng số 3 diện tích 4.320 m2; đất của nhà xưởng số 4 diện tích 1.440 m2 tại Khu công nghiệp Quang Minh (huyện Mê Linh, Hà Nội)”.
Khi xem xét, tòa án nhận định, các bên góp vốn trên lãnh thổ Việt Nam nên cần áp dụng bản tiếng Việt. Điều khoản của bản cam kết thành lập doanh nghiệp quy định nếu phát sinh tranh chấp sẽ áp dụng theo pháp luật Việt Nam.
Điều lệ Công ty Uno cũng thể hiện điều này. Ngoài ra, theo Điều 175, Luật Đất đai 2013 thì doanh nghiệp không được góp vốn bằng quyền sử dụng đất là đất thuê trả tiền hàng năm.
Theo luật sư Nguyễn Văn Thái (Công ty Luật hợp danh Bross và cộng sự), hiện nay, pháp luật không quy định về ngôn ngữ cụ thể để buộc các bên phải sử dụng khi giao kết hợp đồng mà điều này chỉ quy định trong pháp luật tố tụng, ví như tranh chấp dân sự thì ngôn ngữ tố tụng là tiếng Việt.
Thông thường, các bên sẽ có điều khoản xác định nếu xảy ra khác biệt thì sẽ áp dụng bản ngôn ngữ nào.
Còn nếu cùng một giao dịch có nhiều điều khoản mâu thuẫn thì phải đánh giá cụ thể từng trường hợp, thực tiễn các bên thực hiện như thế nào vì hiện nay không có bất cứ chuẩn mực mẫu nào.