Về quy định này, trước hết cần thống nhất một số nhận thức: đó là, khi ban hành những điều đảng viên không được làm có nghĩa rằng trên thực tế đã có những vi phạm, những hiện tượng chưa lành mạnh của một bộ phận đảng viên. Tức là, Đảng đã nhìn nhận trong Đảng hình thành và tồn tại những loại hành vi không phù hợp, sai trái, vi phạm pháp luật, có thể bị xử lý theo quy định của pháp luật hoặc chưa (khó) xử lý bằng luật pháp[1], do đó cần được xử lý bằng các quy định của Đảng. Điều đó cho thấy Đảng thẳng thắn, mạnh dạn với các khuyết điểm, hạn chế trong nội bộ của mình, như đã từng thể hiện điều đó trong suốt chiều dài hình thành và phát triển của Đảng. Đó là thái độ không tránh né sự thật, dù là sự thật không hay.
Bên cạnh đó, khi Đảng yêu cầu đảng viên không được làm một số điều thì không có nghĩa là Đảng hạn chế quyền tự do của đảng viên hay rộng hơn là quyền tự do của công dân. Trong xã hội pháp quyền, thượng tôn pháp luật, mỗi cá nhân phải tuân thủ pháp luật, nhưng cá nhân đó là đảng viên thì phải tuân thủ thêm các quy định khác của Đảng. Điều đó hoàn toàn phù hợp với thông lệ và thực tiễn của các xã hội. Cũng như tín đồ của một tôn giáo bên cạnh phải tuân thủ pháp luật như mọi công dân khác còn phải chấp hành các giáo lý, giáo luật của tôn giáo mà mình tin theo. Nếu ai đó cảm thấy mình không thể hoặc không muốn thực hiện các quy định thêm đó thì có thể không tham gia.
Không chỉ vậy, trong Đảng, mỗi đảng viên luôn có quyền và trách nhiệm, nghĩa vụ; thông thường quyền càng lớn thì trách nhiệm, nghĩa vụ càng cao. Cùng với những điều được làm thì luôn có những điều không được làm, đó là sự ràng buộc để tổ chức đảng giữ nghiêm kỷ luật. Việc không được làm đó không phải là các cấm đoán vô cớ mà là nhằm bảo đảm kỷ cương của Đảng, đồng thời phát huy cao nhất vai trò, trách nhiệm của mỗi đảng viên trong thực hiện các nhiệm vụ chung của Đảng.
Trong lịch sử của Đảng ta, đã từng có lúc Đảng thực hiện rất nghiêm túc, quyết liệt việc tự phê bình để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu nhằm hoàn thành các mục tiêu cách mạng trong những giai đoạn cụ thể. Năm 1939, trước nguy cơ chủ nghĩa phát xít lớn mạnh và Thế chiến II bùng nổ, thực dân Pháp trở mặt đàn áp phong trào dân chủ, những phần tử trốt kít giả danh cách mạng cũng ra mặt chống phá Đảng. Trên cương vị Tổng Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã chỉ đạo và tiến hành cuộc đấu tranh kiên quyết, sâu rộng trên mặt trận tư tưởng, lý luận, nhằm chống bọn trốt kít và củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng. Với bút danh Trí Cường, đồng chí đã hoàn thành bản thảo tác phẩm “Tự chỉ trích” vào tháng 6/1939 và ra mắt vào 7/1939, gây tiếng vang lớn. Trong tác phẩm, nổi bật nhất là tinh thần tự phê bình và phê bình, nhằm làm cho Đảng ta thống nhất về tư tưởng và hành động, thật sự trong sạch, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng để có thể lãnh đạo được thực hiện cuộc cách mạng giành độc lập trong bối cảnh mới.
Hay trong thời kỳ cải cách ruộng đất (thời kỳ 1954 – 1957), đây là chủ trương đúng với tình hình cách mạng lúc đó, song đáng tiếc trong tổ chức thực hiện đã có những sai lầm cả về tư duy và phương pháp… Hội nghị Trung ương 10 khóa II (tháng 10/1956), nhận định: “Bộ Chính trị đã nêu lên một số sai lầm có tính nguyên tắc trong cải cách rộng đất; do không bám sát thực tế, chủ quan, nóng vội dẫn đến nhiều xáo trộn, oan sai…”. Sau đó, Trung ương Đảng đã đưa ra các yêu cầu chấn chỉnh, sửa sai, khôi phục danh dự, xét lại án sai, bù đắp cho những người bị oan; đồng thời các đồng chí lãnh đạo cao nhất trong Ban Chỉ đạo Cải cách ruộng đất nhận trách nhiệm về mình và chịu kỷ luật nghiêm: Tổng Bí thư Trường Chinh đồng thời là Trưởng ban Cải cách ruộng đất Trung ương phải từ chức; ông Hoàng Quốc Việt với trách nhiệm Trưởng ban Chỉ đạo thí điểm tỉnh Thái Nguyên phải thôi Ủy viên Bộ Chính trị…
Gần đây hơn, công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng đã được thực hiện liên tục, thường xuyên bằng nhiều hình thức, nhất là từ Hội nghị Trung ương 6 lần 2 khóa VIII (năm 1999) cho đến Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, khóa XII, khóa XIII cùng các chỉ thị về việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh suốt nhiều nhiệm kỳ qua. Khi đặt ra vấn đề “xây dựng” và “chỉnh đốn Đảng” tức là Đảng đã nhìn thấy tổ chức của mình có những hiện tượng xộc xệch, bất ổn, đặc biệt qua quá trình là một đảng cầm quyền trong thời gian dài, điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo trong Di chúc từ hơn 50 năm trước.
Từ đó có thể thấy, tư tưởng chỉ đạo trong Quy định 37 thể hiện rõ quan điểm phát triển, bởi chính quy định này càng làm tổ chức, bộ máy và các cán bộ, đảng viên ngày càng thể hiện tính kỷ luật, kỷ cương, từ đó không ngừng nâng cao vai trò, năng lực và sức chiến đấu để có thể lãnh đạo nhân dân thực hiện thành công công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng thời, điều đó cũng thể hiện tư duy tích cực bởi có mục đích xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, thể hiện ngày càng rõ tính tiên phong, gương mẫu và nhằm phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn, hoàn toàn khác với ý kiến cho rằng “cái gì không quản được thì cấm” như có người đã rêu rao.
Thời gian qua, Đảng ta đã ban hành nhiều quy định về những điều đảng viên không được làm. Trước Quy định số 37, ngày 1/11/2011, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã ban hành Quy định số 47-QĐ/TW; trước đó, ngày 7/12/2007, Bộ Chính trị khóa X ban hành Quy định số 115-QĐ/TW để thay thế Quy định số 19-QĐ/TW ngày 3/1/2002 của Bộ Chính trị khóa IX. Trước nữa, ở khóa VIII, ngày 12/5/1999, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 55-QĐ/TW về nội dung tương tự. Tuy các quy định đều có 19 điều nhưng nội hàm, tính chất ở từng thời điểm luôn sự đổi mới; đặc biệt là ở 2 quy định gần nhất, cơ quan ban hành là Ban Chấp hành Trung ương chứ không phải Bộ Chính trị. Điều đó cho thấy, tính pháp lý đã được đặt rất cao, đồng nghĩa với việc Đảng ta đặc biệt coi trọng vấn đề kỷ luật này trong tổ chức đảng.
Vân Tâm
___________________
[1] Chẳng hạn, Điều 2 của Quy định 37 nêu: “Không chấp hành các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; tự ứng cử, nhận đề cử và đề cử các chức danh của tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội, các tổ chức quần chúng được Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ khi chưa được tổ chức đảng có thẩm quyền cho phép”. Trên thực tế, nếu đảng viên vi phạm điều này thì không hẳn vi phạm pháp luật nên không thể dùng pháp luật để xử lý, nhưng trong nguyên tắc của Đảng thì đây là hành vi vi phạm kỷ luật đảng, có thể sẽ bị xử lý.